Sau đó, đoàn người không gặp thêm bất kỳ biến cố nào, cứ thế rời khỏi vùng sa mạc ấy. Khi vòng qua một ngọn đồi cát, cảnh vật hiện ra trước mắt đã bắt đầu thay đổi. Bầu trời xanh thẳm, mây trắng bồng bềnh, xa xa những dãy núi uốn lượn, dòng sông hiền hòa chảy xuôi, mực nước dâng cao, hai bên bờ là những lùm cây ngậm nước, mọc phủ san sát. Dưới chân, không còn những bụi cây cằn cỗi như cỏ gai và dâu tằm gai nữa, thay vào đó là từng vạt lau sậy tươi tốt, liễu đỏ tươi tắn và cả những cây hồ đồng cao vút, thỉnh thoảng lại có bóng lừa hoang, linh dương hoảng sợ, tung mình nhảy qua.
Khung cảnh trù phú ấy khiến lòng người cũng nhẹ nhõm hơn hẳn. Dẫu con đường phía trước vẫn nhiều chông gai, nhưng không còn là gánh nặng như trước. Cứ thế, cả đoàn men theo dòng sông, đi một mạch mãi về hướng Tây. Sau gần hai tháng dài đằng đẵng, cuối cùng, họ cũng đặt chân đến Ô Lũy.
Nơi này cách Ngọc Môn Quan chừng hai, ba nghìn dặm, đất đai màu mỡ, nằm giữa vùng Tây Vực. Thời tiền triều, phía Đông Ô Lũy giáp với Cừ Lê – nơi triều đình từng đặt cứ điểm khai khẩn và phòng thủ lâu dài; phía Nam có con sông lớn uốn quanh; phía Tây nối liền hàng loạt tiểu quốc từng quy phục Trung Nguyên; còn phía Bắc có thể quan sát rõ động tĩnh của người Địch cùng các chư quốc nằm dưới quyền Đông Địch. Chính nhờ vị trí chiến lược trời ban này mà nơi đây được chọn làm trị sở của Đô hộ phủ. Thuở Minh Tông còn tại vị, khi Bồ Tả trung lang tướng qua lại Tây Vực, triều đình cũng từng phái quân đóng giữ nơi này, coi như tiền trạm để lập Đô hộ phủ về sau.
Thế nhưng, như ai nấy đều rõ, về sau chuyện ấy cũng dần rơi vào quên lãng. Khi Bồ Tả trung lang tướng và Minh Tông lần lượt qua đời, triều đình chẳng còn lòng dạ nào bận tâm đến Tây Vực nữa. Vài năm sau, nơi này bị tập kích, tiền trạm bị phá hủy, đội quân đóng giữ ngày ấy cũng bị tiêu diệt sạch.
Đến khi cả đoàn thực sự đặt chân tới, cảnh tượng tiêu điều mới hiện rõ trước mắt. Cánh đồng từng được khai khẩn giờ đây cỏ mọc tràn lan, những tòa tháp canh sót lại cũng tan hoang, đổ nát. Niềm hứng khởi vì chặng đường dài sắp kết thúc dần lắng xuống khi họ tìm thấy vị trí của đồn canh xưa.
Đồn ấy nằm trên một gò đất cao hơn hẳn vùng xung quanh, thành lũy hãy còn đó, nhưng tường hào mục nát, khung cảnh hoang vu, bốn bề tịch mịch, đưa mắt nhìn cũng chẳng thấy bóng người.
Hiển nhiên, nơi này đã bị bỏ hoang từ lâu.
Không chỉ Lý Huyền Độ, ngay cả những tội nhân bị ép theo đoàn đến đây cũng lặng thinh trước cảnh tượng trước mắt.
Lý Huyền Độ đứng lặng một lát trước cánh cổng đổ sập của thành lũy, sau đó quay người chia binh làm hai tốp: một tốp được phái đi dò xét tình hình xung quanh, một tốp ở lại thu dọn doanh trại.
Diệp Tiêu lĩnh lệnh thi hành.
Kết cấu của đồn canh này cũng giống với phần lớn các dịch trạm ở biên cương: vuông vức, tường vây cao vút, phía trước là nơi làm việc, phía sau là chỗ ở, có cả đài quan sát. Khác chăng là nơi này chiếm diện tích lớn hơn nhiều, vì có thêm dãy doanh trại dành cho binh sĩ trú đóng.
Nhóm lính ở lại bắt đầu dọn dẹp dãy doanh trại bên phải, nơi trước kia dùng để nơi đóng quân. Lạc Bảo, A Cúc, Vương mụ và một số người khác thì đã tìm được khu vực quan sở ở phía sau. Họ bắt tay ngay vào việc dọn dẹp, trải đệm giường, chuẩn bị chỗ nghỉ tạm trong đêm.
Trên đường đi, họ từng băng qua vài nước nhỏ, nhà cửa của dân thường phần lớn đều tận dụng tối đa vật liệu sẵn có: vách tường quây bằng cành cây, trét thêm lớp bùn, mái lợp sậy, bốn phía để hở cho thông gió.
Thế nhưng nhà cửa còn sót lại tại nơi này thì hoàn toàn khác biệt. Hẳn là năm xưa khi đến đây, quan binh đã mô phỏng cách xây dựng Trường Thành để dựng nên. Tường được trộn bằng bùn sét, cỏ dai và cành liễu đỏ, đầm nện nhiều lần, tuy bề mặt xù xì, thô ráp, nhưng lại kiên cố, dày chắc. Ngoại trừ nhiều dãy tường ở cổng chính và đại sảnh phía trước – nơi dành cho quan viên làm việc – đã bị sập xuống sau nhiều cuộc tấn công, thì mấy dãy nhà phía sau may mắn thoát nạn, còn giữ nguyên dạng. Dù cửa nẻo đều trống trơn, chỉ còn trơ khung vách và cũng chẳng tránh khỏi cảnh tan hoang, thì gian nhà chính vẫn đủ vững chãi, quét dọn qua là có thể ở tạm.
A Cúc thương Bồ Châu, dọn sạch một gian trước rồi giục nàng mau vào nghỉ ngơi.
Cơm nước mới là chuyện quan trọng, bởi hôm nay dù thế nào cũng chẳng thể thu dọn xong phòng ốc. Khi đã thu xếp xong chỗ nghỉ cho mọi người trong đoàn, A Cúc cùng Vương mụ lại tìm đến gian bếp ở dãy nhà sau cùng, tất bật chuẩn bị để còn sớm thổi lửa nấu cơm.
Bồ Châu ở trong phòng nghỉ ngơi một lát, rửa mặt qua loa, đang định ra hậu viện xem thử tình hình thì chợt nghe tiếng hét thất thanh vọng đến, dường như là của Vương mụ. Nàng giật mình, vội cùng Lạc Bảo chạy tới.
Vừa đến nơi, nàng đã thấy Vương mụ giơ cao dao bếp, còn nhũ mẫu thì nắm chặt rìu bổ củi. Cả hai đứng chôn chân trong sân nhỏ trước gian bếp, sắc mặt tái mét, ánh mắt dán chặt vào miệng một hầm chứa dưới đất. Miệng hầm bị một tảng đá lớn đè chặn. Thấy Bồ Châu đến, nhũ mẫu sốt ruột chỉ tay về phía đó, ý bảo nàng mau tránh xa.
Vương mụ cũng hét lên: “Vương phi chớ lại gần! Dưới hầm có kẻ lạ ẩn nấp!”
Lạc Bảo lập tức kéo tay Bồ Châu xoay người bỏ chạy, vừa chạy vừa lớn tiếng hô hoán có kẻ gian. Chẳng bao lâu sau, Lý Huyền Độ đã dẫn theo thị vệ xông tới, hỏi rõ ngọn ngành.
Vương mụ trợn tròn mắt, nói rằng vừa rồi khi bà mở nắp hầm ra, nhìn thấy loáng thoáng bên dưới có bóng người đang lẩn trốn. Bà sợ kẻ đó bất ngờ lao lên tấn công mình nên đã cùng Cúc mụ kéo đá đè lại. Giờ người kia chắc chắn vẫn còn ở trong hầm.
Lý Huyền Độ liếc mắt nhìn về phía hầm, dặn Bồ Châu và nhóm phụ nữ lui ra đằng xa. Trương Tróc dẫn theo hai người tiến lên, cùng nhau nhấc tảng đá ra, rút đao bên hông, giơ chân đá tung nắp hầm lên, rồi quát xuống dưới: “Tiểu tặc phương nào? Đô hộ Tần vương điện hạ đang có mặt tại đây! Mau ra chịu chết!”
Hầm này vốn dùng để tích trữ lương thực cho hàng trăm người nên được đào rất sâu, bên dưới tối đen như mực, chỉ có đoạn gần miệng hầm còn le lói ánh sáng.
Trương Tróc quát xong, thấy dưới hầm vẫn im lìm, bèn đảo mắt một vòng rồi quay đầu bẩm: “Điện hạ, chắc là bọn giặc cỏ bản xứ, không hiểu tiếng! Để hạ quan nhóm lửa quăng xuống, xem hắn có ló mặt ra không!”
“Để ta! Để ta!”
Vương mụ vứt phăng con dao thái rau, xoay người toan chạy vào bếp.
“Khoan đã―”
Đúng lúc ấy, từ dưới hầm chợt vang lên một giọng nói, lại còn là tiếng Hán.
Trương Tróc khựng lại, ngẩn người nhìn xuống, vẻ mặt căng như dây đàn.
Chẳng bao lâu, có người kê một chiếc thang, từ dưới hầm bò lên. Hóa ra là một người đàn ông trung niên chừng bốn mươi tuổi, nhìn có vẻ là người Hán, y phục tả tơi, ăn mặc như người bản xứ, gò má gồ cao, thân hình gầy quắt, hai chân quấn lưới đánh cá bện bằng cỏ khô, giày dép rách nát đến mức lòi cả đầu ngón chân.
Ánh mắt ông ta chất chứa sự dè chừng và bất an. Vừa bò ra khỏi hầm, ông ta vẫn đứng thụt lùi bên miệng hố, chưa dám tiến lên, chỉ lặng lẽ đưa mắt nhìn quanh một lượt, cuối cùng dừng lại trên người Lý Huyền Độ, nhìn hắn chằm chằm.
“Ngươi là ai? Tần vương điện hạ – Đô hộ Tây Vực đang có mặt tại đây, còn không mau quỳ xuống!”
Trương Tróc lại quát lớn, rồi xông lên định đá gập đầu gối ông ta. Người đàn ông kia cuối cùng cũng hoàn hồn, trừng mắt, giọng run rẩy, pha lẫn vẻ không dám tin: “Đô hộ? Là Đô hộ Tây Vực do triều đình phái tới ư?”
Trương Tróc nhíu mày đáp: “Đúng thế!”
Người đàn ông ấy nghe xong, thân hình run lên như mắc bệnh sốt rét. Ban đầu ông ta còn đứng yên, không nhúc nhích, nhưng ngay sau đó, hai chân cũng bắt đầu run lẩy bẩy. Một khắc sau, ông ta đột ngột ngửa mặt gào lên: “Trời xanh có mắt! Cuối cùng cũng đợi được Đô hộ tới rồi!” Chưa dứt lời đã “phịch” một tiếng quỳ rạp trước mặt Lý Huyền Độ, dập đầu liên hồi, sau cùng chỉ nằm sấp xuống đất, tiếng khóc như xé ruột xé gan.
Mọi người thấy ông ta hành xử quái dị, thân cao bảy thước mà lại khóc lóc thảm thiết thế kia thì đều không tránh khỏi kinh ngạc.
Trương Tróc lộ vẻ hoang mang, thu chân lại, đứng sang một bên quan sát.
Lý Huyền Độ nhìn người đàn ông đang quỳ rạp dưới đất, bỗng như ngộ ra điều gì, cất tiếng hỏi: “Ngươi là binh tiên phong được phái tới đây từ năm Tuyên Ninh thứ ba mươi bảy?”
Người đàn ông ấy khóc lóc chẳng khác nào một đứa trẻ bị ngã đau. Nghe hắn hỏi thế, ông vội gật đầu thật mạnh, ngẩng đầu lên đáp: “Đúng vậy! Hạ lại là một trong số những quan quân được triều đình phái tới nơi này dựng tiền đồn năm đó. Hạ lại tên là Trương Thạch Sơn, chức vị là Hữu úy.” Không đợi Lý Huyền Độ lên tiếng hỏi tiếp, ông đã chủ động kể lại chuyện cũ.
Năm ấy, tổng cộng có hơn ba trăm người được đưa tới đây khai khẩn ruộng hoang, dựng lũy đắp thành. Lúc bấy giờ, triều đình nói rằng khi nào phái Đô hộ tới sẽ chính thức lập phủ. Nào ngờ năm tháng trôi qua, lời hứa vẫn mãi là lời hứa suông. Vài năm đầu còn có sứ giả tới lui, mang theo tin tức từ kinh thành, nhưng sau khi Minh Đế băng hà, sứ giả cũng dần thưa vắng. Họ không dám tự ý rời đi, chỉ có thể vừa canh tác vừa kiên trì chờ đợi. Nào ngờ chưa đợi được chỉ dụ của triều đình mới thì giặc đã ập tới.
Hôm đó, ba trăm quan quân chiến đấu ngoan cường, không ai lùi bước, tiếc là lực lượng chênh lệch quá lớn, cuối cùng toàn bộ đều hy sinh.
Khi đó, ông đang dẫn một tiểu đội ba mươi người ra ngoài, nhờ vậy mới may mắn sống sót…
“Mười năm rồi! Hạ lại vẫn nhớ, hôm ấy khi Bồ Tả trung lang tướng đi ngang qua đây, ngài ấy từng dặn hạ lại rằng phải kiên nhẫn chờ đợi, chỉ cần thời cơ chín muồi, triều đình nhất định sẽ lập phủ tại đây. Quả nhiên ngài ấy đã không lừa hạ lại! Hôm nay, cuối cùng hạ lại cũng đợi được Đô hộ đến rồi!”
Trương Thạch Sơn kích động đến nỗi toàn thân run run.
Lý Huyền Độ xúc lòng, liền hỏi: “Những người còn lại đâu?”
Mắt Trương Thạch Sơn đỏ hoe, ông dập đầu, nghẹn ngào đáp: “Hạ lại vô năng, không bảo vệ được các huynh đệ! Nửa năm trước xảy ra biến cố, giờ tính cả hạ lại, nơi này chỉ còn lại ba người!”
Ông lau nước mắt rồi kể tiếp: “Sau khi nơi này bị hủy diệt, đi thêm mấy trăm dặm nữa là đến nước Thượng Thuật, giờ đã đổi sang quy phục Đông Địch. Nước đó dân số chỉ chừng bảy tám ngàn, nhưng binh lính cũng có đến một hai ngàn. Chính chúng đã phát binh, tiếp tay cho kẻ thù, giết hại đồng đội của hạ lại. Khi đó, nhóm của hạ lại chỉ còn ba mươi người, không thể trấn giữ nơi này, nên hạ lại đành mang theo các huynh đệ ẩn náu trong cánh rừng gần đó. Cũng trong thời điểm này, nước Thượng Thuật xảy ra nội loạn, quốc vương cũ bị sát hại, người Đông Địch lập anh trai y lên làm vua. Vương tử còn nhỏ, chỉ chừng sáu bảy tuổi, được vài thân tín hộ tống bỏ trốn, chạy đến đây cầu cứu hạ lại. Hạ lại đã giấu cậu bé ấy đi, tận lực bảo vệ. Cứ thế, ngày nối ngày, năm nối năm, những tưởng có thể tiếp tục cuộc sống tạm bợ thì nửa năm trước, tin tức về Vương tử truyền đến tai Thượng Thuật vương đương nhiệm. Y phái binh, tiến sâu vào rừng truy quét. Hạ lại cùng hai người nữa mang theo Vương tử chạy trốn, trong số những người còn lại, có người bỏ mạng vì cắt đuôi kẻ địch, mười mấy người khác thì bị bắt làm nô lệ, giờ nếu còn sống… chỉ e cũng sống không bằng chết…”
Những lời kể của ông khiến nét mặt ai nấy đều lộ vẻ căm phẫn.
Bồ Châu cũng nhiều lần bị kích động. Nàng xót xa trước vận mệnh thăng trầm suốt mười năm qua của ba trăm quan quân ấy, sau đó là thứ cảm giác thán phục. Đến khi nghe về chuyện sau này, hai tay nàng vô thức nắm chặt, lồng ngực sôi sục niềm căm hận, không thể kiềm chế.
“Thật vô lý! Một nơi nhỏ bé chẳng đáng nhắc tới, vậy mà cũng dám lăng nhục quan binh triều ta!” Trương Tróc tức giận gào lên, đá văng nắp hầm dưới đất.
“Đã không đủ sức chống lại, lại còn phải trốn chui trốn lủi suốt ngần ấy năm, sao không tìm cách hồi hương? Sao có thể để người ta chèn ép đến mức này?”
Hắn nói với Trương Thạch Sơn – người cùng họ với mình – giọng đầy thất vọng, tựa như chỉ hận không thể rèn sắt thành thép.
Trương Thạch Sơn đáp: “Quãng đường trở về xa xôi vạn dặm, bọn ta suốt ngày lẩn trốn trong bóng tối, ăn no còn khó, lấy đâu ra lương thực hay vật tư để vượt đường trường? Chúng ta chết thì cũng đành, nhưng còn vị Vương tử nước Thượng Thuật kia… Năm xưa triều đình phái bọn ta đến đây, nghĩa là đã giao cho chúng ta trách nhiệm bảo hộ chư quốc. Dẫu quan chức ti tiện, thế cô lực mỏng, nhưng Vương tử đã tới nhờ cậy, sao ta dám mặc kệ cơ chứ? Chỉ mong bảo vệ được người, chờ triều đình phái Đô hộ tới như đã hứa rồi sẽ giao người lại, xem như làm trọn chức trách. Trời cao có mắt, chẳng phụ công ta đã chờ đợi suốt bấy lâu nay, giờ ta gặp đã gặp được điện hạ rồi.”
Trương Tróc nghe xong, sắc mặt hiện rõ vẻ hổ thẹn. Hắn khom lưng hành lễ thật sâu, rồi lùi xuống phía sau, không dám hé môi thêm nữa.
Lý Huyền Độ hỏi vì sao hôm nay Trương Thạch Sơn lại xuất hiện ở đây.
Trương Thạch Sơn đáp: “Trùng hợp thay, hôm nay chính là ngày mà năm xưa, các huynh đệ ngã xuống. Hạ lại sống sót, nhưng không dám quên vong linh của các huynh đệ đã khuất, năm nào cũng quay lại tế bái. Vừa rồi, hạ lại thấy điện hạ cùng mọi người đi về hướng này từ xa, nhưng chưa rõ thân phận nên mới vội trốn đi, nào ngờ lại mạo phạm đến điện hạ… tội này thật đáng muôn chết!”
Lý Huyền Độ tiến lên, tự mình đỡ ông dậy. Hắn nói: “Ngươi có tội gì chứ? Chính triều đình đã phụ các ngươi trước, phụ tấm lòng trung nghĩa của các ngươi!”
Trương Thạch Sơn xúc động tột cùng, lập tức gạt tay hắn ra, lui lại hai bước, rồi quỳ sụp xuống đất một lần nữa, cung kính nói: “Từ hôm nay trở đi, hạ lại đã có Đô hộ! Hạ lại thề chết vì ngài!”
Lý Huyền Độ bước tới đỡ ông đứng dậy, hỏi về hai người lính đồn trú kia và cả Vương tử của nước Thượng Thuật. Khi nghe ông đáp hiện họ vẫn đang ẩn náu trong khu rừng rậm gần đây, hắn lập tức phái Trương Tróc đi đón.
Trương Tróc nhận lệnh, dẫn người rời đi.
Chúng binh sĩ vẫn còn bàn tán về chuyện vừa xảy ra, rồi cũng dần giải tán, từng người một đều quay lại với công việc của mình. Lý Huyền Độ đứng lặng giữa sân, vẻ mặt càng lúc càng nặng nề. Hắn đứng đó thêm một lúc, như đang suy nghĩ điều gì, mãi đến khi có người tới báo rằng Diệp Tiêu đã quay về, hắn mới xoay người rời đi.
Trời sập tối, bên phía Bồ Châu coi như đã tạm ổn. Cuối cùng nàng cũng có thể làm mấy món cơm canh đơn giản mà suốt mấy tháng nay chưa từng được ăn. Lý Huyền Độ vẫn chưa trở về, chỉ nhắn qua Lạc Bảo rằng hắn có việc bận, đã dùng bữa ở tiền đồn, bảo nàng ăn trước và nghỉ sớm, không cần đợi.
Mới đến nơi chưa bao lâu lại gặp chuyện như vậy, Bồ Châu biết nhất định hắn sẽ vô cùng bận rộn, nên nàng cũng không đến quấy rầy. Dùng cơm xong, nàng cùng nhũ mẫu và Vương mụ xử lý thêm ít việc lặt vặt trong phòng. Đến khoảng giờ Hợi, Lạc Bảo tới báo tin: hai người lính đồn trú còn lại cùng Vương tử nước Thượng Thuật đã được đưa về an toàn.
Vương tử khoảng mười bốn, mười lăm tuổi, đi cùng là vị quốc tướng đã bảo vệ cậu từ nhỏ. Nhờ sống chung với Trương Thạch Sơn nhiều năm nên họ đều thông thạo tiếng Hán. Nhưng có lẽ vì phải sống trong cảnh chui lủi từ nhỏ nên cậu vừa gầy yếu lại còn nhút nhát. Khi gặp mặt Lý Huyền Độ, cậu sợ đến phát run, phải giải thích nhiều lần thì mới dần ổn định tinh thần, hiện đã được sắp xếp đi nghỉ.
Nơi này vẫn còn ngổn ngang, không thể một sớm một chiều mà dọn dẹp xong được.
Ai nấy đều đã mỏi mệt, Bồ Châu liền bảo người trong viện tản ra nghỉ ngơi sớm. Bản thân nàng sau khi thu xếp ổn thỏa cũng nằm xuống thở ra một hơi.
Căn phòng hết sức đơn sơ: nền đất trơ trọi, tường chỉ trát bùn vàng, đến khung cửa sổ cũng bị người địa phương khoét rỗng, nhũ mẫu đành lấy tấm vải thô tạm thời che lại. Chiếc giường nàng nằm cũng là loại ghép tạm, thoạt nhìn đã thấy không đủ vững chãi. Thế nhưng, sau gần hai tháng liền ngủ trong lều trại gió lùa, giờ đây được duỗi mình trên tấm chiếu mát lành vừa giặt sạch, xung quanh là lớp màn xanh nhạt, nàng bỗng thấy như cuối cùng cũng tìm được một chút bình yên trước khi chìm vào giấc ngủ, giống như mình đã quay về nhà.
Nhưng nàng vẫn chưa ngủ được. Trong lúc chờ Lý Huyền Độ, nàng đưa mắt quan sát gian nhà.
Chỉ cần trám kín cửa sổ, quét một lượt vôi trắng đè lên lớp bùn vàng, trông sẽ sáng sủa hơn nhiều.
Nơi này gần vùng đầm lầy, lau sậy mọc khắp mọi nơi, đợi có thời gian rảnh, nàng sẽ sai người chặt một ít về, đan thành tấm chiếu lớn trải kín sàn. Như vậy vừa che được nền đất ẩm, vừa khiến gian nhà gọn gàng, tươm tất. Mùa này mà được đi chân trần trên chiếu lau, hẳn sẽ cực kỳ mát mẻ, dễ chịu…
Lý Huyền Độ vừa đến đây, không biết tối nay hắn bận việc gì?
Suy nghĩ vẩn vơ một hồi, Bồ Châu chợt nghĩ đến Lý Huyền Độ.
Nàng đoán, có lẽ hắn đang cùng thuộc hạ bàn bạc cách giành lại quyền kiểm soát nước Thượng Thuật một cách nhanh nhất, đồng thời giải cứu hơn mười người lính đồn trú vẫn đang bị bắt giữ.
Nếu là nàng, nàng cũng sẽ nghĩ như vậy.
Thượng Thuật cách nơi này quá gần, chỉ chừng một ngày cưỡi ngựa. Đã chọn nơi này làm căn cứ, sao có thể để một quốc gia thân cận với Đông Địch tồn tại ngay bên cạnh? Còn việc cứu các binh sĩ kia, khỏi phải nói, đó là đạo lý hiển nhiên, là nhiệm vụ trọng yếu hàng đầu.
Dự đoán của nàng quả không sai.
Đêm ấy, mãi đến khuya Lý Huyền Độ mới trở về dãy phòng phía sau. Thấy nàng vẫn chưa ngủ, vừa đặt mình xuống, hắn chủ động nói: hắn đã sắp xếp xong kế hoạch, canh năm ngày mai sẽ đích thân dẫn người xuất phát, đánh chiếm Thượng Thuật.
Tuy đoán đúng suy nghĩ của hắn, nhưng Bồ Châu vẫn không ngờ hắn hành động gấp rút đến vậy. Nàng không khỏi sửng sốt, chống tay lên gối, xoay người nghiêng về phía hắn, khẽ hỏi: “Sao nhanh quá vậy?”
Lý Huyền Độ nằm ngửa, một tay gối đầu, nhìn nàng rồi đáp: “Đúng vậy. Chỗ này cách Thượng Thuật quá gần. Hôm nay chúng ta vừa đến, trong một hai ngày tới bọn chúng ắt sẽ hay tin. Ta phải đánh nhanh thắng gọn, không cho chúng cơ hội chuẩn bị.”
Thượng Thuật là một nước nhỏ, dân số chưa đến một vạn, binh lực cũng chỉ khoảng một hai ngàn. Dù trong tay Lý Huyền Độ hiện chỉ có năm trăm người, nhưng Bồ Châu không hề lo lắng về chuyện liệu hắn có thắng được hay không.
Điều nàng e ngại chính là thế lực đứng sau Thượng Thuật: Đại đô úy An Tây của Đông Địch – kẻ đang nắm quyền kiểm soát toàn bộ các nước Tây Vực.
Nhật ký của phụ thân nàng ghi chép vô cùng tỉ mỉ, mọi biến động lớn nhỏ nơi Tây Vực đều được cập nhật đầy đủ, bao gồm cả thông tin về thế lực thù địch.
Đóng giữ ở phương Bắc Tây Vực là Côn Lăng vương. Dưới trướng Côn Lăng vương, chính là Đại đô úy An Tây – kẻ trực tiếp thu thuế các chư quốc Tây Vực, giữ chức vị tương đương với Lý Huyền Độ.
Lý Huyền Độ mới nhậm chức, còn chưa kịp đứng vững, nay lại gấp rút xuất binh đánh Thượng Thuật, lỡ như đối phương điều quân đến…
Nàng nói ra điều mà mình băn khoăn.
Lý Huyền Độ đáp: “Côn Lăng vương và Tân Hãn vương Đông Địch vốn có hiềm khích. Đại đô úy kia lại là người của Tân Hãn vương, lo sợ Côn Lăng vương sẽ gây khó dễ sau lưng nên đã rút toàn bộ binh mã về phương Bắc để đề phòng. Vả lại, nơi này cách bọn chúng quá xa, chỉ là một nước nhỏ, dù để mất cũng chưa đến mức khiến hắn phải điều binh Nam hạ. Cùng lắm là sai mấy nước phụ thuộc gần đây ứng chiến mà thôi.”
Hắn mỉm cười trấn an nàng: “Đừng lo, ta tự có cách ứng phó. Vài ngày tới ta sẽ quay về, trước đó sẽ để lại đủ binh lực canh giữ nơi này. Trong lúc ta vắng mặt, nàng đừng đi đâu, cứ ở yên tại đây.”
Hắn dặn dò thêm.
“Được, ta biết rồi.” Bồ Châu nghe xong thì thấy yên tâm hơn hẳn.
“Chàng phải cẩn thận, ta sẽ đợi chàng trở về. Sáng mai chàng phải dậy từ canh năm, cũng không còn sớm nữa, ta không quấy rầy chàng, chàng nghỉ ngơi sớm đi, dưỡng sức cho tốt.” Nàng còn ân cần nhắc thêm một câu.
Ánh mắt Lý Huyền Độ vô tình lướt qua làn da trắng mịn như tuyết, hơi lộ ra khi nàng chống tay. Hắn khựng lại giây lát, rồi quay mặt đi, nói khẽ như tự lẩm bẩm: “Được… nàng cũng ngủ đi… ta đi tắt đèn…”
Hắn vừa nhấc người định xuống giường thì Bồ Châu đã nhanh miệng ngăn lại: “Để ta! Chàng đừng dậy nữa!”
Lời vừa dứt, động tác của nàng cũng lanh lẹ vô cùng, xuống giường trước hắn một bước. Nàng xỏ vội đôi giày, đi tới bên bàn, thổi tắt đèn, sau đó quay trở về giường.
Lý Huyền Độ chậm rãi nằm xuống, ngửa mặt yên lặng. Trong bóng tối, hắn dõi theo bóng dáng mờ ảo đang vén màn, dáng hình khẽ động, in loang loáng trên lớp lụa mỏng. Khoảnh khắc ấy, trong lòng hắn chợt dấy lên một niềm mong đợi, tựa hồ đang chờ đợi điều gì đó bất ngờ… giống như lần trước…
Nhưng chẳng có gì bất ngờ xảy ra cả.
Nàng trèo lên giường, nằm xuống cạnh hắn, chìm sâu vào giấc ngủ.
Lý Huyền Độ thở dài một tiếng trong bóng đêm, lòng hơi xao động, cuối cùng cũng nhắm mắt lại.
Canh năm hôm sau, hắn lên đường.
Trong mấy ngày chờ đợi tin tức, ngoài việc tiếp tục thu xếp lại nơi ăn chốn ở và chuẩn bị các vật dụng cần thiết, mỗi khi hoàng hôn buông xuống, nàng đều không kìm được bước chân, một mình trèo lên tầng cao nhất của đài quan sát, đứng lặng nhìn về phương xa. Mỗi nàng xuất hiện ở nơi ấy là lại làm nhóm binh sĩ trẻ tuổi đang canh giữ bên ngoài doanh trại bồn chồn lơ là, thi thoảng lại lén lút ngẩng đầu, ngẩn ngơ nhìn theo bóng dáng yêu kiều, đang đắm mình trong ánh chiều tà ấy…
Đến chiều ngày thứ ba, ở một góc dưới đài quan sát, Bồ Châu bỗng trông thấy một thiếu niên gầy gò chừng mười bốn mười lăm tuổi, dung mạo thanh tú, trên người khoác manh áo tả tơi. Cậu ngẩng đầu nhìn nàng, ánh mắt không rời, dường như đã đứng đó từ lâu lắm rồi.
Khi bắt gặp ánh mắt của nàng, thiếu niên thoáng lộ vẻ căng thẳng, quay người bỏ chạy thật nhanh.
Bồ Châu đoán thiếu niên ấy chính là “cựu Vương tử” bất hạnh của nước Thượng Thuật.
Nàng nhìn theo hướng đó lần nữa song vẫn không thấy động tĩnh gì thêm, bèn rời khỏi đài quan sát, trở về nơi ở.
Tối đến, rảnh rỗi không việc, nàng cùng nhũ mẫu lựa ra tấm lụa đẹp nhất trong số lụa đặc biệt mang theo, thức trắng đêm may cho thiếu niên một bộ áo gấm. Sáng hôm sau, nàng bảo Vương mụ mang đi, dặn phải nói rõ với Vương tử rằng đây là y phục do Tần vương điện hạ ban thưởng. Vương mụ trở về, bà thì thầm kể với nàng rằng, thiếu niên ấy vuốt ve tấm áo, trút bỏ bộ y phục đang mặc rồi thay xiêm y mới tinh vào, trên môi nở nụ cười rạng rỡ hơn bao giờ hết.
Chiều hôm ấy, khi nàng đang định bước lên đài quan sát để tiếp tục ngóng trông, thì bỗng nghe thấy ngoài sân truyền đến tiếng bước chân đầy gấp gáp.
“Vương phi! Điện hạ đã về rồi! Điện hạ khải hoàn trở về rồi―”
Cùng với tiếng reo hò đầy phấn khích, Lạc Bảo như cơn gió chạy ào vào cửa.
“Điện hạ dẫn theo người của nước Thượng Thuật trở về, chuẩn bị đón Vương tử về làm vương!”
Khoảnh khắc ấy, tâm trí Bồ Châu như trút được gánh nặng, nàng mừng rỡ vô cùng, vội vàng chạy về phía trước. Nhưng khi vừa tới trước cánh cửa lớn, nàng khựng lại, dừng bước.
Từ xa, nàng thấy Lý Huyền Độ đang được một đám người vây quanh đưa vào. Dẫu phong trần mỏi mệt, nhưng ánh mắt hắn vẫn ngời sáng. Hắn vừa đi vừa trò chuyện vui vẻ với một người đàn ông có vẻ là quý tộc Thượng Thuật, bóng dáng cả hai nhanh chóng khuất sau đại sảnh phía trước.
Nàng đứng yên sau cánh cửa, nghiêng tai lắng nghe âm thanh ồn ào vọng đến từ phía trước, cuối cùng xoay người trở về.
Đêm nay, người bận rộn nhất trong đồn canh này e rằng phải kể đến Lạc Bảo. Hắn tất bật chạy ngược chạy xuôi, hết lượt này đến lượt khác, không ngừng mang những tin tức mới nhất đến bẩm báo cho vương phi.
Dựa vào những lời kể sống động như thật của Lạc Bảo, thông qua những mảnh ghép rời rạc mà hắn đưa đến, Bồ Châu dần hình dung được toàn bộ hành trình lần này của Lý Huyền Độ.
Hắn đến nước Thượng Thuật, dừng chân bên ngoài cổng thành, dùng ấn tín để báo thân phận, sau đó ban ra hai mệnh lệnh.
Thứ nhất, Thượng Thuật vương phải phóng thích toàn bộ lính đồn trú của Đại Lý từng bị bắt giữ trước đó.
Thứ hai, Thượng Thuật vương phải tự mình ra khỏi thành, cởi áo chịu tội, nghênh đón hắn nhập thành.
Thượng Thuật vương, người đã nhờ vào việc dâng đầu huynh trưởng cho người Đông Địch để giành được ngai vàng và làm vua một nước chư hầu suốt nhiều năm, chưa bao giờ lường đến ngày này. Y cho rằng mình vẫn có thể yên ổn, ngồi vững trên ngai vị, y không ngờ triều Lý lại bất ngờ phái Đô hộ Tây Vực, Tần vương Lý Huyền Độ đến.
Y không biết kẻ địch mạnh yếu ra sao, mang theo bao nhiêu quân mã, bên cạnh lại không có người Đông Địch để dựa dẫm, trong lòng hoảng loạn vô cùng. Y liền đáp ứng ngay với điều kiện thứ nhất, thả hơn mười quân sĩ triều Lý từng bị bắt từ nửa năm trước và bị ép làm khổ sai. Nhưng đồng thời, y cũng phái người tới truyền lời, trước là biện hộ rằng năm xưa vì bị ép buộc nên mới phản bội Đại Lý, quay sang đầu hàng Đông Địch, nay đã biết hối cải, cam lòng quy thuận, về sau sẽ một lòng nghe lệnh Đô hộ. Hôm nay, y sẵn sàng nghênh đón Đô hộ vào thành, nhưng chỉ mong Đô hộ đừng mang theo quá nhiều người, tốt nhất là một đội thị vệ không quá mười người.
Lý Huyền Độ chấp thuận điều kiện ấy, nói rằng mình chỉ mang theo hai người, nhưng đồng thời cũng đưa ra điều kiện mới: vì lý do an toàn, Thượng Thuật vương phải giao chất tử ra, để hắn giữ làm con tin.
Vòng đàm phán thứ hai tiến hành suôn sẻ. Việc hắn chủ động đưa ra điều kiện này khiến Thượng Thuật vương càng tin tưởng rằng chỉ cần y chịu quy thuận, phía Lý Huyền Độ hẳn sẽ không trở mặt. Đợi đến khi y dụ được Lý Huyền Độ vào thành, giết chết Lý Huyền Độ, mang thủ cấp dâng cho Đại Đô úy thì khi ấy, y sẽ lập được đại công.
Còn về chất tử…
Bấy lâu nay, để ứng phó với triều Lý, Đông Địch cùng những nước láng giềng hùng mạnh, dân số áp đảo, các tiểu quốc Tây Vực đã quen với lệ sinh thật nhiều con trai để gửi đi làm con tin. Hôm nay đưa một đứa đi chỗ này, ngày mai đưa một đứa đi chỗ khác, đấy chẳng phải chuyện gì mới lạ.
Y không thiếu con trai. Hiện đã có một đứa làm con tin ở Đông Địch, nay gửi thêm một đứa nữa cũng chẳng sao. Nếu có chết, sau này sinh thêm là được.
Thượng Thuật vương chấp thuận điều kiện ấy xong thì thấy yên tâm hoàn toàn. Sau khi bố trí đao phủ phục sẵn trong cung, y tự mình dẫn theo con trai ra khỏi thành nghênh đón.
Ngay khoảnh khắc cổng thành mở ra, y vừa xuất hiện ở cổng thành thì Diệp Tiêu và Trương Tróc bên cạnh Tần vương cũng đồng loạt xoay người lại, trong lòng mỗi người đều thủ sẵn một chiếc nỏ sắt căng dây, giương thẳng về phía Thượng Thuật vương và đám người đi theo hộ tống y, bóp cò không chút do dự. Mũi tên bắn ra đều nhắm thẳng vào trán, một kích đoạt mạng.
Tương truyền lúc ấy, máu tươi và não trắng văng tung tóe, biến thành một màn sương đỏ lợt, bị gió cuốn thốc lên đến tận mặt lính gác trên đầu tường.
Đám thần tử nước Thượng Thuật và binh lính trấn giữ cổng thành chưa từng chứng kiến thảm cảnh nào tàn khốc đến thế. Chỉ trong chớp mắt, vương, vương tử và cả quốc tướng theo hầu vừa ra đến cổng thì đều chết không toàn thây, thi thể ngã chồng lên nhau ngay dưới cổng thành. Những kẻ còn lại đều kinh hãi đến rụng rời chân tay, chẳng còn ý chí kháng cự, lập tức dâng thành quy hàng.
Lạc Bảo kể rằng, vừa gặp mặt Tần vương, những binh sĩ được cứu thoát kia không ai nén nổi xúc động, khóc òa trong niềm vui sướng. Những người đi cùng Tần vương hôm nay là nhóm quý tộc Thượng Thuật, đến đây là để nghênh đón Vương tử trở về kế vị, dẫn dắt thành bang thần phục Đô hộ phủ.
Nghe nói khi tin tức truyền đến tai dân chúng, ai nấy đều vui mừng vô cùng, nô nức kéo nhau ra bái kiến Tần vương. Nguyên do là bởi khi xưa, lúc còn là một quốc gia phụ thuộc Đại Lý, tuy cũng phải nộp thuế khiến họ có phần bất mãn, nhưng nếu so với những năm gần đây bị Đại Đô úy phủ Tây Vực bóc lột nặng nề, thì vẫn dễ thở hơn nhiều. So sánh rồi mới thấy triều Đại Lý xem ra vẫn còn chút nhân đức, thế nên dân chúng đã sớm hận thấu xương vị vua đương nhiệm, tiếng oán dậy đất vang trời, thử hỏi nay bất ngờ nghe tin, sao có thể không vui mừng hoan hỉ?
Bồ Châu nghe mà huyết mạch sôi trào, trong lòng ngập tràn hào khí, chỉ hận bản thân không thể có mặt nơi đó để tận mắt chứng kiến cảnh tượng hào hùng khiến lòng người sục sôi.
Lúc này, Lý Huyền Độ đang ở tiền viện khoản đãi khách khứa. Bàn tiệc ấy được nàng cho người chuẩn bị từ trước. Vì mới đến chưa lâu, trăm sự còn bề bộn, trong đồn canh lại thiếu nhân lực nên nàng dặn Lạc Bảo qua đó hỗ trợ chuyện tiếp đón, không cần ở lại bên nàng.
Lạc Bảo vâng lời rời đi.
Bồ Châu ngồi trong phòng, chống cằm ngẩn ngơ nhìn ánh nến, trong đầu vẫn văng vẳng những câu chuyện vừa nghe.
Đêm dần khuya, tiếng huyên náo phía tiền viện cũng dần lắng xuống, hẳn là yến tiệc đã kết thúc, nhưng chẳng hiểu vì sao Lý Huyền Độ vẫn chưa quay về.
Nàng đang định bảo Vương mụ ra phía trước xem tình hình thì chợt thấy Lạc Bảo chạy về, lần này hắn mang đến một tin chẳng lành: sau khi hay tin mình sẽ được rước về làm vương, vị Vương tử kia sợ đến mức bật khóc thảm thiết. Nhân lúc tướng quốc và quý tộc say khướt, cậu đã một mình bỏ trốn. Hiện Tần vương đã phái người đuổi theo, tỏa ra tìm kiếm ngay trong đêm.
Lạc Bảo báo xong, chưa chờ nàng mở miệng đã vội quay đầu đi luôn.
Đêm ấy, ngoài mấy quý tộc Thượng Thuật uống đến say mèm, thì toàn bộ người trong đồn canh đều không ai chợp mắt. Mãi đến gần sáng, Diệp Tiêu mới tìm được Vương tử ở gần khu rừng rậm mà trước kia nhóm của Trương Thạch Sơn từng ẩn náu. Cậu bị dẫn về, nhưng cho dù có khuyên giải thế nào thì cậu vẫn không chịu ăn uống, chỉ trốn trong phòng một mình, nước mắt như mưa.
Lạc Bảo chau mày than thở: “Nô tài thấy ngay cả điện hạ cũng sắp nổi giận rồi! Vị Vương tử này thật kỳ lạ, rốt cuộc đang nghĩ gì thế chứ? Chuyện tốt thế kia, người ta cầu còn chẳng được, thế mà nó vẫn không chịu!”
Trong đầu Bồ Châu thoáng hiện lên dáng vẻ mảnh khảnh của chàng thiếu niên kia. Nàng nghĩ ngợi giây lát rồi bước ra ngoài, đi đến trước phòng của Vương tử. Vừa đến nơi, nàng đã thấy Trương Tróc đang nổi đóa, đòi lấy đao kề lên cổ xem cậu có còn dám lắc đầu nữa không. Trương Tróc đang gào lên thì thấy nàng xuất hiện, hắn ngừng bặt, nhớ tới chuyện xui xẻo từng bị giễu cợt trước đây, nên vội lẻn đi.
Bồ Châu đi đến trước cửa, thấy Vương tử vẫn mặc bộ xiêm y mới mà hôm trước nàng sai người mang đến, nhưng giờ đã rách lỗ chỗ. Cậu cúi gằm mặt, co ro ngồi trong góc. Lý Huyền Độ đứng đó, gương mặt âm trầm. Tướng quốc và quý tộc Thượng Thuật đều có vẻ lo âu, vây quanh cậu khuyên nhủ hết lời, nhưng mặc cho ai nói gì, cậu vẫn ngồi đó rơi lệ.
Bồ Châu vẫy vẫy tay với Lý Huyền Độ, đợi hắn bước ra, nàng nhỏ giọng hỏi: “Hay để ta thử xem sao?”
Lý Huyền Độ ngoảnh đầu nhìn thoáng qua Vương tử, ngập ngừng giây lát, rồi khẽ gật đầu.
Hắn ra lệnh cho những người còn lại lui hết, chính hắn cũng rời đi, thuận tay khép cửa lại giúp nàng.
Bồ Châu đi đến trước mặt Vương tử, mỉm cười hỏi cậu vì sao lại bỏ trốn.
“Không sao cả, ngài nghĩ gì cứ nói với ta, ta sẽ không cười ngài đâu.” Nàng dịu dàng nói.
Thiếu niên ấy từ từ ngẩng đầu, nhìn nàng thật lâu, cuối cùng mới rụt rè nói: “Ta sợ…” Dứt lời, nước mắt lại lã chã tuôn rơi.
Bồ Châu cân nhắc một chút, rồi khẽ hỏi: “Ngài sợ một ngày nào đó người Địch sẽ đánh tới, giết ngài giống như đã giết phụ vương ngài, phải không?”
Đôi mắt Vương tử ánh lên sự sợ hãi, thân mình run rẩy, gật đầu lia lịa.
Bồ Châu nói: “Nghe ta nói này. Giờ Tần vương điện hạ đã đến đây, trước khi ngài thật sự an toàn, chàng sẽ không bỏ đi! Chàng sẽ ở lại đây, bảo vệ ngài và thần dân của ngài. Chỉ cần ngài một lòng quy thuận Đại Lý, chàng nhất định sẽ không bỏ mặc ngài!”
Nàng ngừng lại giây lát.
“Chàng là người đàn ông anh dũng nhất, có bản lĩnh nhất trên đời này! Điều ngài cần làm, thực ra rất đơn giản, đó là đặt trọn niềm tin vào chàng! Chỉ cần ngài tin chàng, chàng sẽ không bao giờ phụ ngài, càng không phụ con dân của ngài!”
Mỗi chữ vang lên đều ngập tràn khí phách.
Ngoài cửa, một bóng người lặng lẽ lắng nghe, thoáng khựng lại rồi bất động như tượng.
Trong phòng, Vương tử cũng ngơ ngác nhìn nàng, ngây ra chẳng nói được câu nào.
Bồ Châu nhìn thoáng qua y phục trên người cậu, nhoẻn cười: “Ngài có muốn cả đời đều được mặc những bộ xiêm y đẹp đẽ thế này không?”
Vương tử cúi xuống nhìn, gật đầu.
“Vậy hãy tin tưởng điện hạ, trở về làm một vị vua thật tốt, thì về sau ngày nào ngài cũng sẽ được khoác lên mình những bộ y phục còn đẹp hơn thế này gấp bội.”
Nước mắt trên gương mặt thiếu niên dần khô đi. Cậu chần chừ một lát, rồi nói lí nhí: “Ta… ta có một Vương tỷ. Họ định gả tỷ ấy cho Đại Đô úy Đông Địch. Nếu có thể, ta… ta muốn Tần vương điện hạ cưới tỷ ấy… như vậy ta mới yên tâm được…”
Trong phòng lặng đi một hồi.
Ngoài cửa, thân hình người đàn ông nọ cũng cứng lại, thậm chí là nín thở. Một lúc sau, cuối cùng hắn cũng nghe thấy giọng nói của nữ tử trong phòng vang lên: “Tần vương điện hạ thì không được. Chàng đã có vợ rồi. Nếu ngài không yên tâm thì có thể chọn người khác. Ngoài Tần vương điện hạ ra, bất cứ ai cũng được!”
Bóng dáng ấy thả lỏng, toàn thân như được giải thoát khỏi một áp lực vô hình.
Trong phòng, Vương tử ngẫm nghĩ một lát, cuối cùng miễn cưỡng nói: “Vậy… vậy thì chọn vị Tư mã mặt có vết sẹo kia đi!”
Bồ Châu bật cười: “Được, ánh mắt của ngài không tồi chút nào. Hắn đúng là một đại anh hùng. Nếu hắn cưới Vương tỷ của ngài, sau này hắn nhất định sẽ bảo vệ ngài chu toàn. Ta sẽ hỏi hắn ngay, ngài yên tâm, đừng lo nghĩ thêm nữa.”
Nàng lại dịu giọng an ủi thêm vài câu, thấy tâm trạng Vương tử ổn định lại thì mới đứng dậy, bước ra ngoài.
Lý Huyền Độ nghe tiếng chân nàng, vội xoay người định đi, nhưng đã chậm một bước. Ngoái đầu lại, cánh cửa đằng sau đã mở ra, nàng bước ra, vừa ngẩng lên liền chạm phải ánh mắt hắn.
Hắn khựng bước, xoay người đối diện với nàng, khuôn mặt không biểu lộ cảm xúc, nói: “Vậy để Diệp Tiêu cưới đi! Hắn cũng nên lấy vợ rồi.”
Truyện Hoàng Dung, truyện dịch, truyện chữ... nơi bạn đọc những truyện chất lượng nhất. Đọc truyện là thỏa sức đam mê.

Đăng nhập để bình luận