Sau một đêm mưa xuân lất phất, bầu trời ngoài cửa sổ cũng bắt đầu hửng sáng.
Bồ Châu chầm chậm mở mắt, nghiêng mặt sang một bên. Dưới ánh sáng nhạt nhoà của buổi sớm mai len qua khung cửa sổ, nàng nhìn người đàn ông đang nằm bên gối mình.
Hắn vẫn nhắm mắt, tựa hồ vẫn còn chìm sâu vào giấc ngủ. Ánh bình minh phác họa theo từng đường nét góc cạnh, vừa tuấn tú vừa cương nghị trên gương mặt hắn.
Đêm qua, khi nghe hắn vẽ ra viễn cảnh về tương lai, điều nàng nghĩ đến đầu tiên chính là bản thân mình.
Thế nhưng, trước khi nàng kịp lên tiếng hỏi, hắn đã nói với nàng về sự sắp đặt mà hắn dành cho nàng.
Xét về lý trí, quả thật đó là cách sắp đặt hợp tình hợp lý nhất.
Con đường phía trước của hắn hiểm trở khôn lường. Từ những lời hắn nói, nàng biết việc có thể sống sót để đặt chân đến nơi hắn muốn đến hay không vẫn còn một ẩn số. Nếu lúc này hắn dẫn nàng theo cùng, chưa bàn đến chuyện nàng có phải là gánh nặng của hắn hay không, xét một cách khách quan, làm vậy chẳng khác nào bắt nàng liều mạng theo hắn.
Bằng cách sắp xếp này, ngay cả trong tình huống xấu nhất, ít ra nàng sẽ không phải đối mặt với nguy cơ mất mạng.
Hắn đang suy nghĩ cho nàng, về điểm này Bồ Châu không phủ nhận.
Thế nhưng, nàng lại có cảm giác rằng giờ đây, hắn đã không còn là hắn của trước kia nữa.
Trước kia, khi ở cạnh nàng, hắn luôn là người khó đoán, vui buồn thất thường.
Hắn từng đối xử rất tốt với nàng. Những lúc gần gũi thân mật, nàng có thể cảm nhận được sự yêu thương và khát khao mãnh liệt của hắn đối với nàng. Khi hai người xa nhau, hắn từng không quản ngàn dặm, tìm đến nàng và tha thiết bày tỏ nỗi lòng.
Hắn cũng từng trách mắng nàng, giễu cợt nàng, lúc nổi giận còn buông lời cay nghiệt khiến nàng nhớ mãi không quên.
Một Lý Huyền Độ như thế, mới là Lý Huyền Độ mà Bồ Châu vẫn quen thuộc.
Thế nhưng, từ lần gặp lại ở Thượng Quận, sau đêm đó, hắn đã khác hẳn.
Hắn thay đổi hoàn toàn.
Hắn không còn nổi giận với nàng, cũng chưa từng nói nửa lời khiến nàng phiền lòng hay đau khổ. Hắn chăm sóc nàng chu đáo, từng cử chỉ đều rất mực ân cần.
Vậy mà, Bồ Châu lại cảm thấy giữa hai người đã xuất hiện một bức tường vô hình, âm thầm ngăn cách giữa hai người.
Đêm ấy, khi hắn chủ động chia sẻ với nàng về những dự định cho tương lai, lòng nàng đã tràn ngập vui mừng. Tất cả những gì hắn miêu tả khiến nàng không khỏi xúc động. Những lời hắn nói, dù chỉ vỏn vẹn vài câu, song lại như vẽ ra một bức họa đồ vĩ đại trước mắt nàng, đang được từ từ trải mở.
Và rồi, nàng cũng không tránh khỏi cảm giác hụt hẫng bởi quyết định sau cùng của hắn, một quyết định không hề hỏi qua ý nàng.
Trong đêm xuân dài đằng đẵng tại một căn nhà nông giữa chốn đồng quê, không biết liệu Lý Huyền Độ, người nằm ngay bên cạnh nàng với nhịp thở đều đặn, có thực sự ngủ hay không, chứ nàng thì không tài nào chợp mắt được.
Tâm trí nàng được lấp đầy bởi sự căng thẳng, lo lắng, hân hoan, xen lẫn cả chút thất vọng khó gọi thành tên, cho đến tận khi ánh rạng đông vừa ló dạng.
Hàng mi của Lý Huyền Độ động đậy, rồi hắn từ từ mở mắt. Như cảm nhận được ánh nhìn của nàng, hắn cũng xoay mặt qua, ánh mắt hai người chạm nhau.
“Dậy thôi.”
Hắn khẽ nói.
Khoảng giờ Thìn (7h-9h), Lý Huyền Độ đưa nàng rời khỏi căn nhà kia, tiếp tục lên đường đi về phía kinh đô, bỏ lại sau lưng lời cảm ơn rối rít của đôi vợ chồng già đứng bên đường tiễn họ. Đi suốt một ngày qua những cánh đồng hoang vắng, khi trời sập tối, cuối cùng bọn họ cũng tới được kinh đô.
Lúc này, tất cả các cổng thành đều đã đóng chặt. Bình thường quanh đây vẫn luôn tập trung đông người, giờ lại vắng tanh không một bóng thường dân, khắp nơi chỉ toàn là binh lính mặc giáp tay cầm trường mâu, canh phòng nghiêm ngặt. Trên tường thành, quân sĩ liên tục tuần tra, quan sát từng động tĩnh phía xa.
Lý Huyền Độ đưa Bồ Châu vào trong Tây Uyển.
Tây Uyển lệnh có vẻ ngoài bình thường, lại bị tật ở chân, nhưng vẫn đích thân ra gặp Lý Huyền Độ, sau đó vội vàng rời đi.
Thấy Bồ Châu cứ nhìn theo bóng lưng của Tây Uyển lệnh, Lý Huyền Độ liền giải thích: “Ông ấy là cậu ruột của Khương Nghị, từng giữ chức cung vệ lệnh ở Trường An trong những năm đầu, sau được phong làm Kim Ngô tướng quân chánh nhị phẩm nhờ công lao chinh chiến. Chỉ là trong một trận đánh, chân ông ấy bị thương, không thể tiếp tục làm một võ quan, nên sau khi hồi triều, Thái hoàng Thái hậu sắp đặt cho ông làm Tây Uyển lệnh tại đây. Tuy đã rời xa trung ương quyền lực, không hỏi chuyện thị phi, người của Bắc Nha lẫn Nam Tư cũng đã trải qua nhiều lần thay máu, nhưng ông ấy vẫn còn vài người quen cũ. Nàng yên tâm, chờ thêm một chút nữa thôi, ông ấy nhất định sẽ đưa tin đến được cung Bồng Lai.”
Bồ Châu nhìn chằm chằm bóng lưng Tây Uyển lệnh, không phải vì nàng nghi ngờ năng lực của ông ta, mà là bởi nàng chợt nhớ đến kiếp trước.
Thì ra năm xưa, người bí mật đưa Lý Huyền Độ rời khỏi nơi ấy chính là vị Tây Uyển lệnh này.
Khi đó nàng cũng từng đoán liệu Tây Uyển lệnh có phải là người đã giúp Lý Huyền Độ trốn thoát hay không, nhưng chính dáng vẻ tầm thường và cái chân bị tật khiến ông ta đi lại tập tễnh ấy, đã khiến nàng loại bỏ mối nghi này. Tây Uyển quá rộng lớn, không thể nào canh phòng chặt chẽ ở khắp mọi nơi, tất nhiên sẽ có kẽ hở để người ta lợi dụng. Nàng đã nghĩ rằng việc Lý Huyền Độ xuất hiện ở đó có lẽ chỉ là trùng hợp mà thôi.
Không ngờ, suy đoán của nàng khi ấy lại chính xác, chẳng qua khi đó nàng bị vẻ bề ngoài của ông ta đánh lừa.
Giữa lúc lệnh tróc nã toàn quốc được ban xuống vậy mà vẫn có thể lén đưa người rời đi, người làm được điều này phải có quan hệ và thế lực cỡ nào thì mới làm được? Vị Tây Uyển lệnh này tuyệt đối không phải hạng người tầm thường. Cho dù lúc này cổng thành đã bị giới nghiêm, nhưng nếu ông ta muốn báo tin đến cung Bồng Lai thì hẳn cũng sẽ có cách.
Quả nhiên, đến nửa đêm, Trần nữ quan ngồi cung xa đến nơi. Bà hỏi Lý Huyền Độ mấy câu, biết hắn âm thầm rời khỏi hoàng lăng, liền nói: Thái hoàng Thái hậu có chỉ, lệnh hắn lập tức quay về, nên làm gì thì cứ làm, mọi việc chờ chỉ dụ tiếp theo.
Lý Huyền Độ đưa mắt nhìn Bồ Châu, gật đầu: “Ta cũng đã định như vậy. Phiền ma ma giúp ta chuyển lời này đến tận tai Hoàng tổ mẫu, rằng Xu Xu xin nhờ cậy vào người, Huyền Độ dập đầu cảm tạ!”
Nói xong, hắn liền xoay người rời đi, bóng dáng nhanh chóng khuất vào màn đêm tĩnh mịch.
Bồ Châu theo Trần nữ quan lên cung xa. Nữ quan thấy vẻ mặt nàng lo lắng, bèn nắm lấy tay nàng, dặn đừng lo nghĩ quá nhiều, rồi ra lệnh cho xe hồi cung. Khi đến cổng Bắc kinh thành, quan giữ thành vừa thấy là xe của cung Bồng Lai thì không dám hỏi han nửa lời, lập tức ra lệnh mở cổng.
Canh tư, trời đen kịt, là lúc đêm tối dày đặc nhất, Bồ Châu cuối cùng cũng bước qua cánh cổng lớn của cung Bồng Lai, được dẫn đến diện kiến Khương thị.
Khương thị đứng lặng một mình trước khung cửa sổ trong tẩm điện, đưa lưng về phía nàng, lặng lẽ nhìn về khoảng trời đêm xa xăm, dáng người tựa như pho tượng bất động.
Dưới vòm trời ấy là dãy tường viện nối tiếp nhau của cung Trường An, thoáng ẩn thoáng hiện.
Bồ Châu đứng sau lưng bà, không dám lên tiếng, sợ làm bà giật mình. Một lúc lâu sau, thân hình bà đột nhiên chao đảo, kế đó là từ từ khom xuống, tựa như không còn gắng gượng nổi nữa, nàng hoảng hốt chạy lên, vội đỡ lấy cánh tay bà.
Ánh đèn mờ nhạt hắt lên mái tóc bạc trắng của Thái hoàng Thái hậu, vẻ mặt tiều tụy, cả người toát lên nét già nua và mỏi mệt chưa từng thấy.
Bồ Châu kinh hãi, nghẹn giọng van nài: “Hoàng tổ mẫu! Người hãy nghỉ ngơi trước đã…”
Khương thị mượn tay nàng làm điểm tựa, ngồi xuống chiếc đôn mà Trần nữ quan vội mang đến, thở dài một hơi, khẽ nói: “Con biết vừa rồi ta nghĩ đến điều gì không?”
Bồ Châu thuận thế quỳ xuống bên đầu gối bà, khẽ lắc đầu.
Khương thị chậm rãi nói: “Ta nhớ lại chuyện năm xưa, lúc ta cũng trạc tuổi con bây giờ…”
Bồ Châu ngẩng mặt, ngước nhìn bà.
“Khi ấy ta đã là Hoàng hậu. Con có thấy cây hải đường bên ngoài kia không? Đó là cây ta mang từ nhà vào cung khi mới nhập cung. Về sau, ta dọn đến nơi này, vốn định bỏ lại nó, nhưng nghĩ đi nghĩ lại, vẫn thấy không nỡ, nên mới cho người đào cả gốc, chuyển đến đây. Năm nào ta cũng ngắm nó nở hoa, khi hoa tàn, ta biết rằng một năm nữa lại trôi qua. Sống cả một đời, e rằng thứ duy nhất có thể ở bên ta đến cuối cùng… chính là nó.”
Giọng bà vẫn bình thản, nhưng Bồ Châu lại như cảm nhận được sau sự bình thản ấy là tầng tầng lớp lớp cảm giác thê lương và lạnh lẽo. Nàng không khỏi nhớ đến tòa lầu ngũ phượng treo đèn hoa lộng lẫy vào đêm Thiên Thu năm ngoái, cảnh sắc huy hoàng ấy như vẫn còn in đậm trong tâm trí nàng. Khi đặt cạnh khung cảnh tịch liêu đêm nay, lòng nàng như thắt lại.
“Hoàng tổ mẫu, sao người lại nghĩ như vậy! Ngoài cây hải đường kia cùng người trải qua bao năm mưa nắng, thì trên sách sử, nhất định cũng sẽ dùng những nét son rực rỡ để ghi lại công đức của người, một nữ minh quân, sáng suốt tháo vát, chèo chống vận mệnh trong cơn nguy nan. Ngoài sử sách, còn có triều thần và bá tánh khắp thiên hạ đều kính yêu người! Trước kia, con từng nói với người, khi con ở Hà Tây, ai nấy đều tôn kính người là Tây Vương Mẫu, Hoàng tổ mẫu, người còn nhớ không?”
“Ngoài ra còn có…”
Nàng cố lục lọi trí óc, bỗng sực nhớ ra, liền vội tiếp lời: “Trong mắt Tần vương điện hạ, người là trưởng bối mà chàng tôn kính và yêu quý nhất trên đời. Hoàng tổ mẫu, người nhất định phải vững vàng, ngàn vạn lần chớ để sứ tự trách dày vò bản thân như thế!”
Khương thị vẫn không động đậy, cúi đầu, ánh mắt dừng lại trên gương mặt nàng, như đang nhìn ngắm. Một lúc lâu sau, bà lắc đầu, than nhẹ: “Đúng là một đứa trẻ ngốc nghếch nhiệt tình… Con đang an ủi ta đấy à? Ta vốn tự cho mình có con mắt nhìn người, nhưng trước kia, e là đã xem nhẹ con rồi. Ta nhớ rõ đêm Thiên Thu năm ngoái, khi ta đứng trên khuyết lâu giữa trời đêm, không ai dám nhìn thẳng vào ta, chỉ có con ngước mắt nhìn trộm. Con nhìn ta làm gì? Trong mắt con, ta là người như thế nào?”
Trái tim Bồ Châu chợt nóng bừng lên, nàng đáp ngay: “Trong mắt con, Hoàng tổ mẫu là một nữ trung hào kiệt hiếm thấy trên đời. Từ Hoàng hậu đến Thái hậu, rồi đến Thái hoàng Thái hậu, người có tài năng và mưu lược hơn người, sự nghiệp lẫy lừng, công lao to lớn, lại luôn biết đặt đại cục và đại nghĩa lên trên hết, bao dung ôn hòa. Người xứng đáng với mọi vinh quang và những lời tán dương.”
Khương thị bỗng bật cười, ban đầu chỉ là tiếng cười khe khẽ, rồi tiếng cười càng lúc càng lớn hơn, cho đến khi nước mắt như muốn rơi xuống. Bà quay đầu nhìn Trần nữ quan đứng cách đó không xa, cười nói: “Ngươi nghe thấy không? Chẳng phải cô bé này đang xem ta như một vị Thánh nhân rồi đó sao…”
Giọng bà mang đậm vẻ tự giễu.
Trần nữ quan đỏ hoe cả mắt, không nói một lời, quỳ xuống dập đầu sát đất.
Tiếng cười của Khương thị dần lặng đi. Bà quay sang nói với Bồ Châu: “Có thể sử quan sẽ ghi lại đôi dòng về ta, có thể dân chúng sẽ khen ngợi đôi lời về ta, nhưng con có biết không, sau tất cả những thứ vinh hoa mà con thấy, phía sau lưng ta là những năm tháng bị cái gọi là thiên hạ và đại cục trói buộc. Cả đời ta đã làm rất nhiều việc, đến giờ nhớ lại, vẫn không dám chắc rốt cuộc là đúng hay sai.”
Bồ Châu ngơ ngẩn nhìn bà.
“Con bé ngốc à, ta không phải Thánh nhân. Vì trách nhiệm của bản thân, vì cục diện mà ta muốn gìn giữ, ta đã hy sinh rất nhiều người, phụ lòng rất nhiều người. Mẫu thân của Hoài Vệ, Khương Nghị, rồi cả Ngọc Lân Nhi…”
“Ngọc Lân Nhi của ta, từng là một thiếu niên phong lưu tự tại biết bao, vậy mà giờ đây lại thành ra như thế. Năm đó ta rõ ràng biết nó vô tội, vậy mà vẫn không thể bảo vệ được nó. Ta… không xứng để nhận được sự yêu kính ấy của nó…”
Giọng bà bắt đầu run rẩy, cảm xúc như chực vỡ bờ. Nhũ danh ấy được bà lẩm bẩm liên tục, ánh mắt ẩn chứa nước mắt, giọng nói dần nhỏ lại.
Bồ Châu kinh ngạc, nàng quỳ ngồi xuống nền đất, ngẩng đầu, đờ đẫn nhìn người phụ nữ già nua trước mặt, gương mặt ấy chỉ toàn nỗi đau đớn và dằn vặt.
Trong giây phút này, Khương thị đã không còn là vị Thái hoàng Thái hậu luôn khoác trên mình ánh hào quang mà Bồ Châu từng biết. Bà chỉ còn là một bà lão tóc bạc da mồi, già yếu, mỏi mệt, bình thường như bao người khác.
Khương thị khẽ thở dài trong màn đêm yên tĩnh. Bà lặng đi hồi lâu, có vẻ như cuối cùng cũng bình tâm trở lại. Nhìn thấy Bồ Châu vẫn ngẩn ngơ nhìn mình, bà dịu giọng hỏi: “Con thấy thất vọng về Hoàng tổ mẫu rồi phải không?”
Bồ Châu bừng tỉnh, vội vàng lắc đầu.
Ánh mắt Khương thị vẫn đặt cả vào nàng, mỉm cười nói: “Xu Xu, Hoàng tổ mẫu có một lời muốn tặng con: Người ở ngôi cao, ngoài ánh hào quang ra thì còn có những ràng buộc và trách nhiệm đi kèm. Cả một đời này của Hoàng tổ mẫu, tuy ngồi nơi cao nhất, nhưng làm gì cũng chẳng ra hồn, vậy nên mới dẫn đến tai họa hôm nay…”
Bà quay đầu lại, dõi mắt nhìn về hướng cung Trường An, hồi lâu sau mới quay đầu lại.
“Trước khi đưa con tới đây, Ngọc Lân Nhi có từng nói với con điều gì không?”
Bồ Châu nhớ lại đêm qua, khi hắn dùng mũi kiếm vạch từng nét xuống đất, vẽ một tấm bản đồ ra cho nàng xem. Sau một thoáng do dự, cuối cùng nàng vẫn hạ quyết tâm, khẽ đáp: “Chàng nói với con rằng, từ nhỏ đã có một chí hướng, đó là chặt đứt đôi cánh của Đông Địch, bình định Tây Vực. Hoàng huynh của chàng không thể chứa chấp được chàng, nay Thái tử lên ngôi, e rằng lại càng không thể bỏ qua cho chàng. Chàng dự tính vòng qua Tây Hải để đến Tây Vực, vừa để tự cứu mình, vừa để thực hiện chí lớn. Chàng thân là nam nhi, nếu có thể dốc sức tung hoành, thì dù có chết chín lần cũng không hối tiếc. Có điều…”
Nàng ngừng lại, lén nhìn Khương thị.
“Chàng nói, ngày chàng tiến vào Tây Vực, cũng chính là ngày chàng mang danh phản bội triều đình. Chàng không sợ bị gán tội phản loạn, nhưng điều duy nhất chàng không thể buông bỏ, đó chính là Thái hoàng Thái hậu. Chàng sợ người sẽ thất vọng vì chàng.”
Khương thị nhắm mắt lại, ngồi yên bất động, trông như đã nhập định.
Bồ Châu nói xong, trong lòng thấp thỏm, vội quỳ gối lùi về sau mấy bước, dập đầu thật mạnh: “Hoàng tổ mẫu, chàng đã nhiều lần gặp phải thích khách ám toán. Mùa thu năm ngoái là một lần, may mắn thoát nạn, nhưng đến mấy hôm trước, bề ngoài là phụng mệnh đến hoàng lăng làm việc, song thực chất đó lại là cái bẫy để lấy mạng chàng của người khác. Nếu không phải chàng mạng lớn, thì có khi chàng đã mất mạng từ lâu rồi. Hoàng tổ mẫu, chẳng phải chàng cố ý muốn mang tiếng phản nghịch, mà là chàng đã bị dồn từng bước đến đường cùng. Nếu không đi thì chỉ còn nước ngồi yên chờ chết! Con xin Hoàng tổ mẫu, vì tấm lòng trung thành của chàng, xin người đừng trách tội chàng. Đêm qua chàng đã nói, sẽ tự mình đến trước mặt người để nhận tội, cầu xin sự tha thứ…”
Bồ Châu vừa nói vừa rơi lệ, nước mắt trào ra như chuỗi ngọc bị đứt dây, dập đầu chạm đất.
“Nó có tội gì, vì sao phải cầu xin sự tha thứ của ta?”
Bỗng nhiên, một giọng nói vang lên bên tai nàng.
“Năm xưa ta từng lấy danh nghĩa tông pháp và đại cục, tước đi cơ hội vốn thuộc về nó, đã nợ thì phải bù đắp. Tuy rằng bất kỳ sự đền bù nào, so với những gì nó đánh mất, cũng chỉ như vảy nhỏ cánh tàn, chẳng đáng nhắc đến, nhưng chí ít, ta tuyệt đối sẽ không để nó phải tiếp tục gánh chịu tội danh vốn không thuộc về mình!”
Tim Bồ Châu đập thình thịch, nàng ngẩng đầu, thấy Khương thị đang nhìn thẳng vào mình, từng lời từng chữ vang lên đều mạnh mẽ và kiên quyết.
“Nó muốn đi, ta sẽ để nó đi. Đường đường chính chính, không thẹn với trời đất, không phụ tổ tông, vì sao nó phải liều mình trong cảnh chín phần chết, một phần sống, để rồi mang tiếng phản nghịch?”
“Tại sao tội ác và những việc làm xấu xa lại có thể vin vào tông pháp để che đậy, mặc nhiên hoành hành, trong khi ánh sáng cùng sự quang minh chính đại thì lại bị đè nén, thậm chí trở thành vật hy sinh… Nếu vậy, thiên lý nằm đâu?”
Tim Bồ Châu như muốn bật khỏi lồng ngực, Nàng lại một lần nữa quỳ gối trượt đến bên cạnh Khương thị, hai tay run run nắm chặt lấy tay bà, nghẹn ngào gọi: “Hoàng tổ mẫu…” Giọng nàng đã lạc đi vì xúc động.
Khương thị trầm mặc giây lát, đoạn bình tĩnh cất lời: “Những năm phụ thân con bôn ba ở Tây Vực, Minh Tông từng có kế hoạch, nếu tình hình khởi sắc thì sẽ thiết lập Đô hộ phủ Tây Vực để bình định Tây Vực, thu phục lòng người, điều tiết mâu thuẫn giữa các quốc gia, tạo thành khối đồng minh chống lại Đông Địch. Phụ thân con đã được chọn để trở thành vị Đô hộ đầu tiên. Khi ấy, ấn tín đã được đúc xong, thậm chí triều đình còn cử một đội nhân mã vượt quan, đến đóng quân tại Ô Lũy, nơi từng được tiền triều đặt làm Đô hộ phủ, vừa làm điểm tiếp tế cho sứ giả qua lại, vừa chuẩn bị cho việc thành lập phủ. Nhưng trời không chiều lòng người, cũng có thể là vận nước dưới triều Lý ta chưa đến. Chẳng bao lâu sau, phụ thân con chẳng may gặp nạn, rồi lại xảy ra vụ án của Lương Thái tử, kế đó Minh Tông cũng băng hà. Chuyện này rốt cuộc không còn ai nhắc đến nữa. Về Ô Lũy, nghe nói mấy năm trước đã bị Đông Địch đánh phá, đội quân trú đóng ở đó cũng bị tàn sát, giờ e rằng đã thành đất hoang rồi…”
Bồ Châu ngẩng đầu, mắt ngân ngấn lệ, nhìn bà.
“Tuy Hoàng tổ mẫu đã già, chỉ còn quanh quẩn trong thâm cung, nhưng chỉ cần ta chưa chết, thì những lời ta nói vẫn còn chút trọng lượng. Nếu Ngọc Lân Nhi muốn ra Tây Vực gây dựng sự nghiệp, ta sẽ đưa cho nó ấn tín được đúc năm xưa song vẫn chưa có có dịp dùng tới, để nó đường hoàng bước qua Ngọc Môn Quan!”
Bà nhìn thẳng vào Bồ Châu.
“Đây là tất cả những gì Hoàng tổ mẫu có thể làm cho hai đứa. Chức Độ hộ này nói trắng ra chỉ là hư danh. Sau khi vượt qua quan ải, mọi khó khăn và thử thách kế đó chỉ có thể dựa vào chính nó.”
Bồ Châu gật đầu thật mạnh, nước mắt mừng rỡ không ngừng tuôn rơi. Nàng vừa tự lau đi vừa áp mặt vào đầu gối bà, nhắm mắt lại, hít một hơi thật sâu, như muốn ghi khắc khoảnh khắc tuyệt diệu mà đến cả trong mơ nàng cũng không dám nghĩ tới này.
Khương thị khẽ thở dài, âu yếm vuốt ve mái tóc nàng, ánh mắt đong đầy yêu thương.
Trong tẩm điện yên tĩnh, ánh sáng ngày mới bắt đầu len lỏi vào. Một thị vệ hoàng cung bước vào gấp gáp, thì thầm nói vài câu với Trần nữ quan. Nghe xong, bà liền bước nhanh đến trước mặt Khương thị, cúi đầu bẩm báo: “Thái tử cùng Quách Thái phó, Quách Lãng, cùng đến xin cầu kiến. Thái tử nói mình có tội, hiện đang quỳ bên ngoài cung.”
Bồ Châu mở choàng mắt, ngồi thẳng người dậy.
Khương thị mỉm cười, quay sang nói với nàng: “Con xem, nó tới nhanh thật đấy. Đến gặp ta mà cũng không dám đi một mình, còn phải dắt theo cả Thái phó của mình. Đúng là làm khó lão cáo già Quách Lãng ấy rồi.”
Bà đứng dậy, nói: “Chuẩn bị y phục cho ta. Ta muốn gặp bọn họ!”
Truyện Hoàng Dung, truyện dịch, truyện chữ... nơi bạn đọc những truyện chất lượng nhất. Đọc truyện là thỏa sức đam mê.

Đăng nhập để bình luận