Hai tháng trước, Lý Huyền Độ vừa rời khỏi nước Khuyết, trên đường đã nhận được thư khẩn của Khương thị. Sau khi cấp tốc hồi kinh, hắn đã vào diện kiến Khương thị ngay trong đêm, nhờ đó biết thêm được nhiều tin tức khác.
Đại vương tử, huynh trưởng của Hoài Vệ, từ nhỏ thể trạng yếu ớt, trước đó nhiễm phải trọng bệnh, thuốc thang vô hiệu, chỉ trong mười mấy ngày đã bất hạnh qua đời. Mấy năm gần đây sức khỏe của Tây Địch vương vốn đã không tốt, nay gặp đả kích lớn, bệnh tình càng thêm trầm trọng. Theo nhận định của y sĩ từng theo Kim Hi đến thành Ngân Nguyệt trước đây, chỉ e cũng chẳng gắng gượng được bao lâu nữa.
Biến cố xảy đến quá đỗi đột ngột, trước mất trưởng tử, nay lại sắp mất trượng phu, Đại Trưởng công chúa vừa đau đớn vừa bàng hoàng, đồng thời hết sức lo lắng, vội sai người triệu hồi con út tức tốc về thành.
Lý Huyền Độ mang theo lời dặn của Khương thị, ngay hôm sau liền hộ tống Hoài Vệ rời kinh, một mạch đi về phía Tây.
Lúc Hoài Vệ đến, đội ngũ gồm sứ thần, thị vệ, tùy tùng, nô bộc, kéo dài dằng dặc đến cả mấy trăm người, khí thế oai nghiêm, phô trương hoành tráng, còn lần này trở về, chỉ có mấy chục thị vệ tinh nhuệ được tuyển chọn kỹ lưỡng. Vì muốn đẩy nhanh tốc độ dưới tiền đề là ưu tiên sự an toàn của Hoài Vệ, Lý Huyền Độ đã sắp xếp lịch trình cực kỳ khẩn trương. Hoài Vệ cũng như trưởng thành chỉ sau một đêm, dọc đường chưa từng kêu khổ nửa lời. Đoàn người vượt qua hoang mạc vàng cát, băng qua ốc đảo xanh tươi, dãi gió dầm sương, ngày đêm không nghỉ, mãi đến hôm nay, cuối cùng đã đến được thành Ngân Nguyệt – nơi đặt Kim trướng của Tây Địch vương.
Trưởng công chúa Kim Hi nhận được tin, phái nữ quan hầu cận là phu nhân họ Lương, người đã theo bà gả xa đến đây, dẫn người ra khỏi thành nghênh tiếp, còn bản thân bà cũng rời trướng từ sớm, kiễng chân ngóng đợi.
Trong gió vẳng lại tiếng vó ngựa xen lẫn tiếng lục lạc, lúc gần lúc xa. Bà ngẩng đầu nhìn thì thấy vài lá cờ bay phần phật trong gió, dần hiện ra nơi chân trời xa tít, dưới cờ là một đội nhân mã đang tiến về phía này. Còn chưa đến gần, đã thấy một đứa trẻ không kìm được sự nôn nóng, thúc ngựa rời khỏi đội ngũ, phi nhanh đến trước, rồi nhảy phắt khỏi lưng ngựa, vừa gọi vang: “Mẹ ơi!” vừa lao thẳng về phía bà.
Nếu không phải ấu tử Hoài Vệ của bà thì còn là ai được nữa?
Kim Hi cũng bước nhanh về phía trước, dang tay ôm chầm đứa con đang nhào vào lòng mình, siết chặt cậu bé hồi lâu rồi mới buông ra để nhìn kỹ.
Gần một năm không gặp, chẳng những nó đã cao hơn hẳn một cái đầu và thoạt nhìn còn cứng cáp khỏe mạnh hơn trước, không còn là dáng vẻ ấu thơ như trong trí nhớ của bà nữa, mà thấp thoáng hiện lên dáng hình của một thiếu niên nhỏ tuổi.
Trong nỗi xúc động xen lẫn yên lòng, nàng thấy nó ngửa mặt lên hỏi thăm phụ vương và huynh trưởng nó, đôi mắt bà rưng rưng, viền mắt cũng không khỏi nóng lên.
Bà cố dằn xuống nỗi bi thương trong lòng, nhẹ giọng an ủi nó mấy câu, điều chỉnh lại cảm xúc rồi ngẩng đầu nhìn sang đoàn người ngựa đã dừng lại phía trước.
Một nam tử trẻ tuổi mặc thường phục màu xanh sải bước đi tới. Khi đến gần, hắn không lập tức lên tiếng, mà chỉ lặng lẽ dừng lại bên cạnh bà và Hoài Vệ, ánh mắt nhìn bà không rời, đến khi bà dỗ dành con trai xong, quay sang nhìn mình thì hắn mới mỉm cười, cung kính hành lễ: “Cô mẫu, con là Huyền Độ đây.”
Những năm Tần vương mất mẹ, sống tại cung Bồng Lai, phần lớn đều do Kim Hi chăm nom, tình cảm cô cháu rất sâu đậm. Năm bà xuất giá sang Tây Địch, Tần vương chỉ mới bảy tám tuổi.
Những năm qua, Kim Hi vẫn thường nhớ đến đứa cháu trai này, nhớ về ngày bà xuất giá, hắn tiễn bà từng chặng từng chặng, cuối cùng còn tiễn đến tận phía Tây, cách cổng thành hơn hai mươi dặm nhưng vẫn không nỡ quay đầu trở về.
Nỗi nhớ đó đau đáu khó tả. Bà luôn tự hỏi rằng, sau khi trải qua biết bao sóng gió, rốt cuộc hắn sẽ trở thành một người lớn thế nào đây?
Và rồi, hai người cũng được gặp lại.
Nam tử trẻ tuổi đang đứng trước mặt tuy có vẻ gió bụi phong trần, y phục loang lổ cát vàng, thế nhưng vai lưng thẳng tắp, chỉ trong cái nhìn đầu tiên, từ gương mặt tuấn tú mà bụi đường cũng không che lấp được ấy, bà đã nhận ra đường nét quen thuộc cùng đôi mắt sáng trong thuở nào.
“Ngọc Lân Nhi!”
Kim Hi thốt lên nhũ danh của hắn, lập tức tiến lên đỡ hắn đứng dậy, hai tay ôm chặt cánh tay hắn, tròng mắt bà ươn ướt. Bà quan sát hắn một cách tỉ mỉ, bàn tay dịu dàng phủi đi lớp cát mịn vướng vào cổ áo hắn.
“Những năm qua, con sống thế nào rồi?”
Lý Huyền Độ cười tươi rói: “Con sống rất ổn.”
“Còn cưới vợ nữa!”
Hắn khựng lại một thoáng, như sực nhớ ra điều gì, bổ sung một câu.
Trong khoảnh khắc ấy vừa mừng vừa tủi ấy, Kim Hi gật đầu, rồi nhanh chóng trấn tĩnh lại, nói: “Tốt, vậy là tốt rồi. Đi thôi, theo cô mẫu đến đây, mọi người đều đang đợi hai người đấy.”
Thầy mo làm phép, thầy thuốc bắt bệnh, nhưng bệnh tình của Tây Địch vương vẫn chẳng thể thuyên giảm, mấy ngày gần đây gần như mê man bất tỉnh suốt ngày, tình thế đã vô cùng nguy kịch.
Lý Huyền Độ vào thăm Tây Địch vương đang nằm hôn mê trên giường bệnh. Lúc ra khỏi trướng, hắn xoa đầu Hoài Vệ đang lau nước mắt, rồi xoay người rời đi, dùng thân phận sứ thần Thiên triều, ra mắt toàn bộ những nhân vật trọng yếu ở Tây Địch.
Dưới Kim trướng của Tây Địch có bốn vị trọng thần. Xét về thực quyền, đó lần lượt là Tả Hiền vương, Hữu Hiền vương, Vạn Kỵ trưởng Thiện Ương và cháu trai Tây Địch vương – Mỹ Lực.
Dạo gần đây, những sự vụ trọng đại trong Kim trướng đều do Kim Hi tạm quyền quyết định, việc thực thi thì được giao cho Thiện Ương và Hữu Hiền vương – người mới từ Hữu bộ (bộ lạc cánh phải) vội vã đến đây sau khi nhận được tin Tây Địch vương lâm nguy.
Từ trước đến nay, Hữu Hiền vương vẫn luôn một lòng thuần phục Tây Địch vương và Kim Hi.
Thiện Ương xuất thân từ dòng dõi quý tộc danh giá, nắm giữ trọng binh trong tay. Sau khi hết tang vợ, y cưới Lương phu nhân – nữ quan thân cận của Kim Hi, xuất thân Lương thị, từ đó cũng một lòng trung thành với bà.
Hôm nay, hai người này đều đã đến Kim trướng từ sớm, dẫn theo Đại đô úy và các Đại hộ đương dưới trướng, đến bái kiến Tần vương Lý Huyền Độ.
Cháu trai của Tây Địch vương là Mỹ Lực viện cớ bệnh, không đến. Về phần Tả Hiền vương, lẽ ra hôm qua đã phải đến thành Ngân Nguyệt, song đến giờ vẫn không rõ tung tích.
Mỹ Lực thì thôi cũng đành, từ trước đến nay vốn chẳng phục Kim trướng, bụng dạ khó lường, Kim Hi thừa hiểu điều đó. Hôm nay, bà cũng đã sớm chuẩn bị tâm lý là hắn ta sẽ không đến.
Nhưng Tả Hiền vương thì khác.
Ông ta là đường huynh của Tây Địch vương, là người có thế lực lớn nhất và địa vị cao nhất dưới Kim trướng, đứng đầu trong bốn viên đại thần, dưới quyền có ba vạn kỵ binh. Tuy không thân thiết với Đông Địch như Mỹ Lực, nhưng lại có quan hệ gần gũi với hắn ta, từ trước đến nay luôn không tán đồng việc Tây Địch vương giữ mối giao hảo với triều Lý, thậm chí từng nhiều lần công khai phản đối. Mãi đến năm ngoái, đứa cháu trai mà ông ta yêu quý nhất mắc bệnh hiểm nghèo, pháp sư bất lực, Kim Hi nghe tin đã phái danh y tới nơi tận tình chữa trị, cứu sống được người, ông ta mới chịu thôi đi.
Dù không muốn đối mặt đến đâu đi chăng nữa thì Kim Hi vẫn hiểu rất rõ: Việc trượng phu qua đời chỉ là chuyện nay mai.
Ở cương vị của bà, giữa lúc đau buồn vì liên tiếp mất đi người thân, bà vẫn buộc phải cân nhắc đến vấn đề kế thừa vương vị.
Tây Địch vương khi còn tỉnh táo đã từng tuyên bố, sẽ truyền ngôi lại cho Hoài Vệ. Trong bốn đại thần, Hữu Hiền vương và Thiện Ương đều đã bày tỏ lập trường ủng hộ, nhưng thái độ của Tả Hiền vương vẫn là điều then chốt.
Nếu ông ta tuân theo di mệnh của Tây Địch vương, thì chỉ còn lại một mình Mỹ Lực, không đủ để tạo nên sóng gió gì.
Nhưng nếu ông ta không tỏ rõ thái độ, thậm chí quay sang ủng hộ Mỹ Lực, e rằng đến lúc đó sẽ là một hồi gió tanh mưa máu.
Về lý thì đáng ra lúc này, ông ta đã phải đến nơi rồi.
Kim Hi chợt thấy bất an, đang định sai người ra khỏi thành dò la tin tức thì một thập trưởng hớt hải chạy vào, mang theo tin báo vừa nhận được.
Trên đường đến đây vào hôm qua, Tả Hiền vương đã bị tập kích bằng ám tiễn. Tuy ông ta không hề hấn gì, chỉ trải qua một phen hoảng hốt, nhưng một dũng sĩ thân cận vì bảo vệ ông ta mà trúng tên ngay giữa ngực, giờ đang cận kề cái chết.
Tả Hiền vương quả quyết rằng triều Lý xem ông ta là cái gai trong mắt, muốn nhân cơ hội trừ khử, để mẹ con Kim Hi thuận lợi nắm quyền, vì thế phẫn nộ, quay đầu trở lại Tả bộ (bộ lạc cánh trái), đồng thời tuyên bố: trừ khi Kim Hi đích thân giao kẻ chủ mưu và hung thủ đứng sau ra trước mặt ông ta, bằng không, dù Tây Địch vương có qua đời, ông ta cũng tuyệt đối không đến dự tang lễ.
Mọi người đều bị vụ hành thích từ trên trời rơi xuống này làm cho chấn động, bàn tán rối rít.
Thiện Ương đứng bật dậy: “Nhất định là Mỹ Lực giở trò sau lưng, muốn vu hãm cho vương phi! Ta lập tức dẫn người đi bắt hắn!”
Hữu Hiền vương tuổi đã cao, lại chín chắn điềm đạm, chau mày ngăn lại: “Chưa có bằng chứng xác thực, ngươi tìm đến hắn, hắn cũng sẽ không thừa nhận. Cẩn thận kẻo hắn mượn cớ kêu oan, chiêu mộ lòng người, khi đó lại càng bất lợi cho vương phi.”
Thiện Ương nén giận, nghĩ ngợi giây lát rồi nói: “Vậy ta sẽ đến Tả bộ, giải thích rõ ràng mọi chuyện!”
Một tiểu vương khác lên tiếng: “Tính khí Tả Hiền vương cố chấp, ai ai cũng biết. Nếu không có chứng cứ xác thực cho thấy chuyện này không liên quan đến vương phi, thứ cho ta mạo phạm, đừng nói là Vạn Kỵ trưởng, đến cả Hữu Hiền vương đích thân đi, e rằng ông ta cũng không chịu nghe đâu.”
Thiện Ương đập bàn giận dữ: “Cái này không được, cái kia cũng không được, vậy phải làm sao? Há lại ngồi yên để Mỹ Lực đạt được gian kế?”
Kim Hi ra hiệu bảo mọi người im lặng, trầm ngâm chốc lát rồi nói: “Để ta đi! Chuyện đã thành ra vậy rồi, Tả Hiền vương nghi ngờ cũng là lẽ thường thôi. Ta sẽ tự mình giải thích rõ với ông ta.”
Ai nấy đều đồng thanh ngăn lại: “Trong khoảng thời gian này, cả vương phi và tiểu vương tử tuyệt đối không được rời khỏi Kim trướng nửa bước!”
Kim Hi mỉm cười: “Ta hiểu rõ Tả Hiền vương, tuy có phần bảo thủ, nhưng cũng chẳng phải hạng người không biết lý lẽ. Huống hồ ta từng có ơn cứu mạng với cháu trai ông ấy, ít nhiều vẫn có thể mở miệng nói vài câu.”
Bà đảo mắt nhìn quanh: “Các ngài hãy chăm sóc tốt cho Hãn vương, bảo vệ tiểu vương tử. Ta đi mời Tả Hiền vương tới Kim trướng!”
“Vương phi, ta xin theo cùng!”
Thiện Ương và mấy vị tiểu vương đồng loạt nói.
“Cô mẫu, để con đi thì hơn.”
Lúc này, Lý Huyền Độ – người từ nãy đến giờ vẫn chỉ im lặng lắng nghe – bỗng mở lời.
Mọi ánh mắt liền tập trung về phía hắn.
Lý Huyền Độ đứng dậy: “Cô mẫu cần chăm lo cho Hãn vương, lại còn gánh vác trọng trách trong Kim trướng, lúc này không nên xuất hành. Tả Hiền vương nghi ngờ triều ta, mà ta chính là sứ thần của Hoàng đế, đã đến nơi này, gặp chuyện như vậy, ta không đi, thì ai đi?”
Thiện Ương mừng rỡ, nói ngay: “Vậy thì còn gì bằng! Vương phi yên tâm, thần sẽ đi cùng, nhất định sẽ bảo vệ Tần vương điện hạ thật chu toàn!”
Kim Hi vẫn còn lưỡng lự chưa quyết, Lý Huyền Độ đã bước lên trước, nở một nụ cười, khẽ nói: “Cô mẫu, con đã thành gia lập thất, không còn là Ngọc Lân Nhi luôn cần đến sự chăm bẵm của người như trước khi người xuất giá. Hơn nữa khi còn nhỏ, lúc rảnh rỗi con cũng học một chút ngôn ngữ bên ngoài quan ải, may mà chưa quên hết. Tuy không dám chắc chuyến này có thể mời được Tả Hiền vương về không, nhưng Huyền Độ nhất định sẽ làm hết sức mình. Mong cô mẫu cho con một cơ hội.”
Kim Hi nhìn đứa cháu trai nay đã cao hơn mình cả một cái đầu, bất giác nhớ lại lời thề năm xưa mà đứa bé bảy tám tuổi ấy đã thốt ra khi bà sắp sửa xuất giá, một thứ cảm xúc ấm áp dần choán cứ cõi lòng bà, cuối cùng bà gật đầu nói: “Con phải nhớ, đến Tả bộ rồi, làm gì cũng phải lượng sức mình, không thành cũng không sao, vẫn còn đường khác để xoay xở. Quan trọng nhất là phải bảo đảm an toàn cho bản thân!”
Lý Huyền Độ gật đầu, sắp xếp người đồng hành, thay đổi y phục, ngay ngày hôm ấy đã cùng Thiện Ương khởi hành đi về phía Tả bộ.
Tả bộ nằm ở phía Đông thành Ngân Nguyệt, lãnh địa giáp ranh với Đông Địch và vùng Ô Ly, [1] giữ một địa thế trọng yếu. Bởi lẽ này nên dù biết rõ chuyến đi này tiềm ẩn hiểm nguy, song Kim Hi vẫn quyết tâm tự đi một chuyến.
1] Ô Ly là quốc gia cổ xưa – Wuyi Shanli, ở Iran.
Hôm sau, đoàn người Lý Huyền Độ tiến vào lãnh địa Tả bộ, tin tức này đã sớm được kỵ binh báo trước cho Tả Hiền vương.
Đến chạng vạng, Lý Huyền Độ cưỡi ngựa tới vương trướng.
Bên ngoài vương trướng, võ sĩ xếp thành hàng dài, một Đại hộ đương dưới trướng Tả Hiền vương bước ra, đảo qua Lý Huyền Độ một lượt, ánh mắt lộ rõ vẻ khinh khỉnh: “Ngươi chính là sứ thần của Hoàng đế triều Lý, Tần vương? Tả Hiền vương cho phép ngươi vào trướng, nhưng chỉ một mình ngươi, mau bỏ hết đao kiếm lại!”
Thiện Ương phản đối: “Không được! Chúng ta mang theo thành ý đến đây, nhưng ai dám chắc các ngươi sẽ không ngấm ngầm giở trò? Ta cũng phải vào!”
Đại hộ đương cười khẩy: “Thiện Ương, người triều Lý tâm cơ đa đoan, trước kia Tả Hiền vương không phòng bị, suýt nữa mất mạng, hôm nay chịu cho hắn một cơ hội diện kiến, đã là nể mặt lắm rồi. Nơi này không phải địa bàn của ngươi, chẳng đến lượt ngươi lên tiếng!”
Thiện Ương còn định tranh cãi nhưng Lý Huyền Độ đã gật đầu với y, ra hiệu không cần đôi co.
Hắn xuống ngựa, tự tay tháo kiếm bên hông, trao cho thị vệ bên cạnh, sau đó đứng thẳng, để mặc đối phương xét người. Đợi khám xét xong, hắn chỉnh lại y phục, rồi cất bước, đi thẳng về phía vương trướng.
Hai bên biển giáo rừng gươm, sát khí rợn ngợp, hắn nhìn thẳng phía trước, bước chân vững vàng, băng qua trận doanh, tiến thẳng vào trong vương trướng cao rộng.
Trong trướng, đông đủ quý tộc bộ Tả đã an tọa. Ai nấy đều tóc tết, vạt áo cài sang trái, vừa thấy hắn vào liền trừng mắt nhìn, có người còn siết chặt chuôi đao bên hông, khiến khoen đao rung lên leng keng, bầu không khí bỗng trở nên ngột ngạt.
Lý Huyền Độ vẫn giữ nét mặt bình thản, dừng lại giữa trung tâm vương trướng, ánh mắt hướng về phía người đàn ông trung niên Tây Địch đang ngồi trên vương tọa đối diện, đánh giá một lượt, rồi nói: “Ngài là Tả Hiền vương, Tang Càn?”
Đối phương là thân vương triều Lý, xét theo quan hệ hiện tại giữa Tây Địch và triều Lý, ông ta chỉ là một Hiền vương, về địa vị, dĩ nhiên ở dưới hắn một bậc.
Tang Càn mặt mày sa sầm, hừ lạnh một tiếng: “Hẳn ngươi chính là Tần vương rồi, thất lễ. Cũng khéo thật, ngươi vừa đến, ta liền gặp thích khách. Không biết Tần vương đối với chuyện này có cao kiến gì chăng?”
Lý Huyền Độ đáp: “Xin hỏi Tả Hiền vương, hôm đó ngài có bắt được kẻ bắn tên không?”
“Không!”
“Nếu không, vậy Tả Hiền vương dựa vào đâu để khẳng định rằng chuyện này có liên quan đến triều Lý ta?”
“Từ trước đến nay, Tả bộ ta chưa từng tán thành việc Kim trướng giữ thái độ khúm núm trước triều Lý các ngươi. Giờ Hãn vương sắp không qua khỏi, các ngươi sợ ta phá hỏng mưu đồ, nếu không phải là các ngươi thì ai sẽ phục kích để giết chết ta? Nếu ta chết, Tả bộ hỗn loạn, chẳng những các ngươi có thể thuận lợi lập cái tên tiểu Hán nhân kia lên ngôi, mà còn thừa cơ chiếm đất ta, đoạt người đoạt súc vật. Món hời như thế, chẳng phải rất hợp ý các ngươi sao?”
Lời vừa dứt, trong đại trướng ngập tràn tiếng mắng nhiếc, khoen đao va vào nhau loảng xoảng, âm vang không dứt.
Lý Huyền Độ chắp tay sau lưng, ánh mắt lạnh lùng liếc nhìn đám quý tộc Tả bộ đang trừng mắt đầy hậm hực, chỉ chực rút đao xông lên. Hắn kiên nhẫn đợi đến khi tiếng quát tháo dần lắng xuống, mới bước đến trước mặt một võ sĩ người Địch đang cầm cung, vươn tay ra hiệu, bảo y giao cung tên cho mình.
Võ sĩ kia lộ vẻ cảnh giác, lùi lại một bước. Những người xung quanh cũng đồng loạt đổ dồn ánh mắt.
Âm thanh trong trướng tức thì im bặt.
“Ngươi định làm gì?” Viên Đại hộ đương đã dẫn hắn vào lên tiếng, giọng điệu đề phòng.
Lý Huyền Độ chẳng buồn đáp lời, chỉ hơi nghiêng đầu, hướng về phía Tả Hiền vương đang ngồi trên cao, nói: “Tả Hiền vương khăng khăng cho rằng chuyện này do người Lý triều gây ra. Vậy ta sẽ chứng minh, việc này không phải do triều Lý gây ra. Ta muốn mượn cung tên của võ sĩ một lát, chỉ không biết, chư vị có gan nhìn cho rõ hay không?”
Trong trướng, không một ai lên tiếng.
Khóe môi Lý Huyền Độ nhếch lên, lộ ra một nụ cười.
“Ta một mình bước vào đây, trong tay không một tấc sắt, vậy mà không ngờ đến một cây cung các vị cũng không dám để ta chạm vào. Đã vậy thì thôi, ta chẳng còn lời nào để nói. Tả Hiền vương muốn làm gì thì cứ làm, triều Lý ta xin tiếp đến cùng. Cáo từ!”
Hắn xoay người bước ra ngoài.
Đám quý tộc Tả bộ đưa mắt nhìn nhau, chẳng mấy chốc đã hiện rõ vẻ không cam lòng.
“Đứng lại!” Tang Càn quát lớn, lệnh võ sĩ kia đưa cung tên cho hắn, lạnh giọng nói: “Ta muốn xem ngươi còn giảo biện thế nào!”
Lý Huyền Độ dừng bước, tiếp nhận cung tên, ước lượng trong tay, rồi sai võ sĩ tiếp tục cởi bỏ giáp da, xếp bảy lớp chồng lên nhau, cố định vào vách trướng, đặt thêm một cây nến mỡ bò đang cháy ở phía trước, sau đó lui về, đứng ở phía đối diện, giương cung lắp tên, nhắm thẳng, bắn một mũi tên theo hướng đó.
Mũi tên rời dây, lao đi vun vút, chỉ trong chớp mắt, ánh lửa của ngọn nến đang cháy liền tắt phụt. Mũi tên cắt đứt tim nến một cách chuẩn xác, nhưng thân nến lại không hề xê dịch, ngọn lửa tắt ngấm như bị cắt phăng, chỉ còn một làn khói xanh uốn lượn bay lên. Một tiếng “phập” theo sau, mũi tên ghim thẳng vào chồng giáp da dày cộm.
Võ sĩ bước tới, gỡ giáp khỏi vách trướng.
Mũi tên bắn thủng bảy tầng áo giáp, dính chặt các lớp giáp lại với nhau.
Người Địch vốn nổi danh thiện xạ, nhưng dù là xạ thủ trăm người mới chọn được một, cũng không dám đảm bảo có thể bắn được mũi tên vừa dập lửa nến, lại vừa xuyên thủng bảy lớp giáp da.
Đại trướng chìm vào tĩnh lặng. Đại hộ đương dẫn hắn vào lúc trước mặt đầy kinh hãi, nào ngờ được vị Tần vương triều Lý trông như văn sĩ trẻ tuổi kia lại có bản lĩnh bắn cung đến bậc này.
Tang Càn mặt mày âm trầm, cất tiếng: “Tiễn pháp của Tần vương khiến ta như được mở mang tầm mắt. Chỉ là không hiểu việc này thì có liên quan gì đến vụ hành thích?”
Lý Huyền Độ trao trả cung tên cho võ sĩ ngây người như vừa hóa đá kia, đoạn xoay người nói: “Nếu mũi tên hôm đó là do ta bắn ra, ta dám chắc mình có thể hạ sát Tả Hiền vương ngay tại chỗ. Chư vị sẽ không phản đối chứ?”
Tất cả đưa mắt nhìn nhau, không ai lên tiếng.
“Đây chính là điều ta muốn nói với Tả Hiền vương: nếu vương phi thực sự muốn ám sát ngài, hoặc là không ra tay, còn nếu đã ra tay, ắt phải chuẩn bị kỹ càng, quyết đoạt mạng ngài, tuyệt đối không để ngài toàn mạng trở về! Còn như hôm ấy, chỉ là một mũi tên bắn lạc, Tả Hiền vương không bị thương dù chỉ một cọng tóc, người bị thương là một thủ hạ dưới trướng. Ngài nghĩ xem, làm vậy khác nào cố tình để lại mối họa? Nếu cô mẫu ta là người hấp tấp nông nổi như thế, thì sao có thể ngồi vững ngôi vị vương phi của Kim trướng cho tới tận hôm nay?”
Trong trướng, im phăng phắc.
Gương mặt Lý Huyền Độ thoáng hiện vẻ kiêu ngạo.
“Hơn nữa, ta nói cho các người biết, khả năng bắn cung của ta chỉ là chút tài mọn mà thôi. Trong quân đội triều Lý, những tay thần xạ giỏi hơn ta nhiều vô số kể! Nếu vương phi muốn tìm thích khách để ám toàn, chuyện đó dễ như trở bàn tay, nào đến mức phải giao phó nhiệm vụ trọng yếu ấy cho lũ bất tài chỉ giỏi vẽ chuyện như hôm đó?”
Sắc mặt Tang Càn vô cùng khó coi.
Lý Huyền Độ hỏi tiếp: “Sao thế, Tả Hiền vương vẫn chưa tin sao?” Thấy Tang Càn muốn nói lại thôi, hắn mỉm cười: “Đã vậy, ta có thể lấy thêm vật khác ra chứng minh. Không biết Tả Hiền vương có hứng thú không?”
Tang Càn miễn cưỡng đáp: “Là vật gì?”
“Ở chỗ tuỳ tùng của ta. Đợi hắn tới, Tả Hiền vương tự khắc sẽ rõ.”
Đám quý tộc Tả bộ trong trướng bắt đầu bàn luận sôi nổi, ai nấy đều lộ vẻ hiếu kỳ.
Tang Càn liếc nhìn mọi người một lượt, mặt mày u ám, hạ lệnh cho vào.
Chẳng bao lâu sau, một viên thị vệ bước vào từ ngoài trướng, khiêng theo một chiếc hộp dài. Hắn mở hộp, lấy ra một cây nỏ sắt sơn đen và một chiếc đầu sói đông cứng như khối sắt. Hắn đặt đầu sói ở một khoảng trống gần cửa trướng, đoạn quay sang nhìn Lý Huyền Độ chờ lệnh.
Lý Huyền Độ gật đầu.
Thị vệ lùi lại, giương nỏ, ngắm thẳng vào đầu sói, bóp cò.
Chỉ nghe một tiếng “đoàng” vang dội như sấm động, cả chiếc đầu sói bị bắn nát thành muôn mảnh. Từng mảnh xương vụn lẫn răng nanh vỡ nát, nổ tung như pháo hoa, bắn tung tóe khắp gian đại trướng, thậm chí một vài mảnh còn văng trúng mặt mấy tên quý tộc Tả bộ đứng gần, đau rát không chịu nổi.
Nếu như màn bắn cung ban nãy đã đủ khiến người ta kính nể, thì giờ phút này, tất cả quý tộc Tả bộ có mặt trong trướng, kể cả Tả Hiền vương Tang Càn, đều là lần đầu được mục sở thị thứ vũ khí có uy lực kinh người thế này, ai nấy đều không khỏi biến sắc.
Một số người ánh mắt sáng rỡ, thậm chí không kìm được đứng bật dậy, bước tới gần định xem xét kỹ cây nỏ kia.
Lý Huyền Độ thu hết phản ứng của bọn họ vào đáy mắt, nét mặt vẫn ung dung, nhàn nhạt nói: “Chỉ là món đồ cũ của Ưng Dương vệ, cấm quân Bắc Nha năm xưa, chuyên trang bị cho các đội tinh nhuệ, dùng để thi hành những nhiệm vụ đặc biệt mà thôi.”
Hắn đưa mắt nhìn về phía Tang Càn, lúc này đang sững sờ như chết đứng, rồi từ tốn hỏi: “Dám hỏi Tả Hiền vương, với cung tên như vậy, trọng nỏ như thế, nếu quả thực ta và vương phi cấu kết ám hại ngài, thì hôm ấy, liệu ngài có dễ dàng thoát thân như vậy không?”
Mặt Tang Càn lúc đỏ lúc trắng, cuối cùng nghiến răng nói: “Chẳng lẽ là Mỹ Lực? Là hắn giở trò ly gián?”
Lý Huyền Độ đáp: “Phải hay không phải, Tả Hiền vương cứ đích thân tới Kim trướng đối chất, chẳng phải sẽ rõ hay sao?”
Tang Càn vung chân, đá văng bàn rượu trước mặt, bật người đứng dậy, quát lớn: “Các huynh đệ! Theo ta lên đường, đến Kim trướng ngay!”
Truyện Hoàng Dung, truyện dịch, truyện chữ... nơi bạn đọc những truyện chất lượng nhất. Đọc truyện là thỏa sức đam mê.

Đăng nhập để bình luận