Ngọn lửa bùng lên dữ dội trong hậu viện của dịch xá, may thay giữa tiền sảnh và hậu viện có bức tường ngăn lửa, nên khi lửa cháy lan đến đó thì ngừng lại.
Ban ngày Lạc Bảo đã ngủ một giấc trong xe ngựa, đêm nay tinh thần phấn chấn, chủ động thay phiên canh gác với bạn. Do bữa tối ở dịch xá nêm mặn quá mức, đến nửa đêm hai người đều cảm thấy khát nước và cùng nhau vào bếp lấy trà, không ngờ uống xong, chẳng mấy chốc đã buồn ngủ đến mức không gượng nổi, ngủ mê mệt ngay tại chỗ, chẳng hay hậu viện phát hỏa khi nào, lại càng không rõ vì sao lại bị cháy. Nếu không nhờ Diệp Tiêu kịp thời phát hiện và đánh thức, chỉ e hai người đã bị thiêu chết trong biển lửa.
Cuối cùng hắn cũng tỉnh lại, ngơ ngẩn một lúc, bỗng chốc bừng tỉnh, nghĩ đến Tần vương phi dường như vẫn chưa thoát ra được, sắc mặt đại biến, lập tức lao về phía hậu viện thì bỗng thấy nàng từ phía đám cháy chạy ra. Dù tóc tai tán loạn, dáng vẻ chật vật, nhưng nhìn sơ cũng không bị thương ở đâu, hắn còn chưa kịp thở phào thì đã thấy Diệp Tiêu được thuộc hạ khiêng ra, mặt trắng bệch như giấy, trên người còn có vẻ bị bỏng, thương thế xem chừng không nhẹ, bên cạnh còn có cả Thẩm Dương nữa. Lạc Bảo thoáng sững người, rồi mới hoàn hồn, vội xông tới giúp một tay.
Vương mụ và những người khác cũng lần lượt được cứu ra. Trong đám người, ngoại trừ Diệp Tiêu bất ngờ bị thương nặng, những người còn lại tuy đều bị bỏng ở các mức độ khác nhau, nhưng may thay, không ai gặp nguy hiểm đến tính mạng.
Xảy ra chuyện lớn đến thế, vậy mà đến giờ viên dịch thừa vẫn chưa lộ mặt, chẳng rõ đã trốn đi đâu. Thẩm Dương quả quyết vụ hỏa hoạn này hẳn có liên quan đến hắn ta. Gã hạ lệnh kiểm tra số người thiệt mạng trong vụ cháy, đồng thời phái thủ hạ tỏa ra những vùng lân cận, lùng bắt dịch thừa.
Viên dịch thừa kia chưa chạy được bao xa thì đã bị bắt lại giải về. Đối mặt với vẻ âm trầm đáng sợ của Thẩm Dương, hắn ta run rẩy khai nhận: chính hắn đã sai người cố tình bỏ thật nhiều muối vào bữa cơm của Tần vương phi lẫn nhóm tùy tùng để khiến họ khát nước, sau đó lại hạ thuốc mê vào nước trà, đợi đến khi thuốc phát tác, lính gác gục xuống thì sắp xếp người phóng hỏa. Mục tiêu, không gì khác, chính là phái đoàn của Tần vương phi.
Thẩm Dương truy hỏi kẻ chủ mưu đứng sau. Ban đầu, viên dịch thừa câm như hến, không chịu hé răng nửa lời. Một thủ hạ dưới trướng Thẩm Dương bước lên, vung tay chém phăng một ngón tay của hắn ta, chưa dừng lại ở đó, lại chém tiếp một ngón nữa. Hai ngón tay bị chặt liên tiếp khiến viên dịch thừa gào rú thảm thiết rồi lịm đi vì đau, sau đó bị dội nước lạnh ép phải tỉnh lại, sau cùng không chịu nổi nữa đành phải khai ra: hắn làm việc này theo chỉ thị của châu quan Đồng Châu, về phần mục đích của đối phương là gì thì hắn ta không biết, chỉ biết rằng đã được hứa hẹn, sau khi xong việc, cầm tiền thưởng mà cao chạy xa bay là xong.
Thương thế của Diệp Tiêu không hề nhẹ. Lúc được Thẩm Dương lôi ra khỏi xà ngang đang bốc cháy, vừa vặn gặp được nhóm thuộc hạ đang hối hả đến tìm. Thấy tình hình như vậy, họ liền khiêng hắn ra ngoài, gọi một vị quân y trong đoàn tùy tùng đến cứu chữa. Quân y mau chóng xử lý vết thương, Bồ Châu dù sợ máu nhưng vẫn cắn răng, hỗ trợ bên cạnh. Nhìn hắn đã được cầm máu, phần lưng cũng đã được bôi thuốc trị bỏng, tuy vẫn còn hôn mê, nhưng sắc mặt có vẻ đã khá hơn ban nãy, tảng đá trong lòng nàng mới được đặt xuống.
Nàng ngồi trong phòng, bên tai là tiếng gào rú thất thanh của viên dịch thừa đang bị thẩm tra, dần dà, âm thanh ấy cũng dần tắt lịm. Sau đó Thẩm Dương đến, thuật lại kết quả thẩm vấn, nói rằng tên dịch thừa kia được châu quan Đồng Châu sai khiến, mục đích là muốn thiêu chết cả đoàn người bên nàng.
Khi nói những lời này, gã chỉ đứng ngoài cửa, không bước vào trong, giọng điệu cũng hết sức cung kính, thái độ vô cùng nghiêm cẩn, hoàn toàn khác hẳn dáng vẻ từng gặp trong đêm thu nọ nơi đường núi hoang vắng.
Bồ Châu nhận ra lòng bàn tay gã cũng có vết bỏng, hẳn là bị thương lúc cố nâng xà ngang bốc cháy, nàng mở miệng hỏi một câu.
Gã đáp rằng chỉ là vết thương nhẹ, không đáng lo, bảo nàng đừng để tâm.
Nàng im lặng.
Thẩm Dương nhìn nàng, nói: “Nếu ta đoán không nhầm, chắc nàng đang nghi ngờ vì sao ta lại xuất hiện đúng lúc ở nơi này?”
Quả thật trong lòng Bồ Châu có chút ngờ vực, nhớ tới vụ cháy ở Trừng viên trước đó, nàng vẫn nhìn gã, nhưng không đón ý câu đó.
Thẩm Dương cười khẽ, giọng mang vài phần tự giễu: “Xem ra vì bình thường chưa làm được gì tử tế nên mới khiến vương phi hoài nghi. Có điều, Thẩm mỗ dám thề với trời, vụ hỏa hoạn đêm nay tuyệt đối không hề liên quan đến ta. Vương phi cũng rõ, bệ hạ sắp Đông tuần phong thiện, Thẩm mỗ may mắn được giao phó đi trước cùng Lưu vương, thu xếp các việc liên quan đến Đông tuần. Mấy hôm trước công việc vừa xong, Thẩm mỗ liền vội vã quay về kinh hồi mệnh, đi đến nơi này thì tình cờ gặp được vương phi, chỉ là trùng hợp mà thôi.”
Bồ Châu quan sát thần sắc gã, cảm thấy lời ấy quả không sai. Nếu thật sự là do gã phóng hỏa thì hẳn đã muốn thiêu chết nàng từ sớm, đâu cần đến cuối lại xuất hiện để cứu người?
Nghĩ đến đây, nàng mới mở lời, thái độ cũng dịu hơn nhiều: “Chỉ cần tay Thẩm tướng quân không sao là tốt rồi. Đa tạ ngài đã cứu giúp Diệp Tiêu.”
Thẩm Dương đáp rằng chỉ là tiện tay giúp đỡ, không đáng để nàng bận tâm, rồi làm ra vẻ lo lắng hỏi: “Vương phi có mối bất hòa gì với châu quan Đồng Châu sao? Bằng không, vì sao hắn ta lại điên cuồng đến mức dám hạ thủ với vương phi như vậy!”
Bồ Châu trầm ngâm giây lát, rồi đáp: “Dưới quyền Đồng Châu phát sinh dịch bệnh, mấy hôm trước ta về quê tế tổ, khi trở lại kinh thành có đi ngang qua thì nghe được ít nhiều, tiện thể hỏi han vài câu, định bụng lần này hồi kinh sẽ tâu lên triều đình. Có lẽ châu quan lo rằng chuyện này sẽ ảnh hưởng đến đánh giá thành tích, muốn bưng bít, vì thế mới ra tay với ta.”
Nghe vậy, Thẩm Dương tức giận ra mặt, nghiến răng mắng một tiếng “đáng chết”, sau đó trầm giọng nói: “Dịch bệnh liên quan đến tính mạng của biết bao người, nếu lan ra, không biết sẽ có bao nhiêu người chết, hậu quả không thể tưởng tượng nổi! Nay đã gặp được nhau ở đây, lại còn cùng đường về kinh, nếu vương phi không chê, ngày mai ta nguyện hộ tống người trở về, để sớm tấu trình lên thánh thượng!”
Diệp Tiêu vẫn luôn bảo vệ nàng, mọi việc đều lo toan chu đáo, nay trọng thương, vừa rồi còn bất tỉnh, chỉ sợ ngày mai khó lòng tiếp tục lên đường. Huống chi, dù hắn có thể tỉnh lại, nàng cũng muốn hắn nghỉ ngơi thêm vài ngày để dưỡng thương.
Thẩm Dương này tuy là kẻ dã tâm bừng bừng, tâm thuật bất chính, nhưng nếu xét riêng chuyện lần này, lại chẳng có gì đáng trách.
Châu quan kia hành sự thất bại, chó cùng rứt giậu, e rằng sắp tới còn có chiêu trò khác, trong khi nàng thì phải gấp rút quay về kinh thành, đấy mới là việc cấp thiết trước mắt.
Bồ Châu nói: “Vậy thì cung kính không bằng tuân mệnh, xin được đa tạ tướng quân.”
Thẩm Dương gật đầu: “Tối nay vương phi gặp kinh hãi không nhỏ, hẳn là vẫn còn mỏi mệt, Thẩm mỗ không làm phiền nữa. Vương phi cứ ngủ thêm một lúc, đợi khi tinh thần khá hơn rồi lên đường cũng chưa muộn.”
Bồ Châu hỏi canh giờ, biết sắp đến canh năm, bèn nói: “Ta không mệt, trời sáng là có thể xuất phát.”
Thẩm Dương liếc nhìn nàng một cái, gật đầu đáp ứng, lại nói lúc này còn chưa đến rạng đông, dặn nàng nghỉ ngơi lần cuối rồi mới cáo lui.
Cơ thể Bồ Châu mỏi nhừ, mí mắt nặng trĩu, nhắm mắt tựa vào vách nghỉ tạm, đợi đến khi trời vừa rạng sáng, nàng lập tức đi thăm Diệp Tiêu.
Diệp Tiêu vừa mới tỉnh lại chưa lâu, nghe nói nàng sắp lên đường, Thẩm Dương sẽ cùng đi, hắn liền vùng dậy, gắng gượng muốn đứng lên, nhưng đầu óc choáng váng, hoa mắt chóng mặt.
Bồ Châu bảo hắn cứ an tâm dưỡng thương, nghỉ ngơi cho tốt.
Thẩm Dương cũng đến, đứng một bên lạnh nhạt nói: “Diệp thị vệ trưởng bị thương thế này, đừng nói cưỡi ngựa đường dài, e là đi bộ thôi cũng đã vất vả rồi. Ta thì không ngại dẫn thị vệ trưởng đồng hành, nhưng chuyện gì cũng nên biết lượng sức.”
Ngụ ý trong lời gã, chính là nếu hắn đi cùng chẳng khác nào tạo thêm gánh nặng.
Diệp Tiêu lặng đi giây lát, sau đó mở lời cảm tạ vì được gã cứu giúp.
Thẩm Dương đáp một câu: “Không có gì,” sau đó quay sang nói với Bồ Châu: “Thẩm mỗ ra ngoài trước, sẽ chờ vương phi ở bên ngoài.”
Chờ Thẩm Dương rời đi, Bồ Châu dặn Diệp Tiêu không được ỷ mạnh nữa, phải dưỡng thương cho lành. Nàng dặn dò kỹ càng, sau đó bảo Vương mụ và các tỳ nữ bị thương khác ở lại, cùng đợi Diệp Tiêu, khi vết thương đỡ hơn thì cùng nhau hồi kinh. Cuối cùng, nàng chỉ mang theo Lạc Bảo – người nhất quyết đòi đi theo – và mấy thị vệ còn lại.
Đêm qua lửa lớn thiêu rụi toàn bộ vật dụng mang theo trong phòng. May thay, mấy ngày nay vì để tiện cho việc di chuyển, mỗi lần dừng chân nghỉ lại, nàng chỉ mang ra vài món cần thiết, còn lại đều cất kỹ trên cỗ xe chở hành lý, nhờ thế mới giữ được nguyên vẹn, bao gồm bản thảo của phụ thân và cả cây sáo xương hạc, giờ vẫn được cất cẩn thận trong rương.
Bồ Châu thu dọn sơ qua ít hành lý, chuẩn bị xong xuôi rồi tiếp tục lên đường.
Những ngày đầu sau đó, mọi việc hết sức suôn sẻ. Trên đường đi, Thẩm Dương chăm sóc nàng rất mực chu đáo, chu đáo đến mức khiến Bồ Châu nhiều lúc thấy không được tự nhiên, nhưng ngoài điều đó ra thì không có gì khác thường.
Chẳng mấy chốc đã đến gần kinh đô, Bồ Châu cũng dần buông lỏng cảnh giác, trong lòng chỉ mong sớm ngày tới nơi. Nào ngờ đến ngày thứ ba lại gặp một chuyện bất ngờ. Buổi chiều, đoàn người đi đến một bến đò, phát hiện cầu gỗ bắc qua sông đã bị đứt gãy. Hỏi dân ven bờ thì được biết: ngày hôm qua cây cầu vẫn còn bình thường, nhưng cầu đã cũ, lại không được tu sửa thường xuyên, đến nửa đêm thì bất ngờ sập xuống.
Bởi dòng sông rất rộng, nước giữa dòng lại chảy xiết, nếu không có loại thuyền lớn bảy trượng (1 trượng = 4 mét) thì thuyền nhỏ không dám chở người qua sông. Người bình thường muốn vượt sông, đành phải chờ đến khi sửa xong cầu mới có thể đi tiếp.
Thẩm Dương liền phái người đi hỏi huyện lệnh địa phương xem khi nào cầu mới có thể sửa xong. Huyện lệnh nghe tin Thẩm Dương đến, đích thân chạy đến đón rước, nói rằng sẽ cho người bắt tay vào sửa, nhưng sớm nhất cũng phải mười hôm nửa tháng mới xong.
Bồ Châu sốt ruột hỏi có thuyền lớn hay không.
Thẩm Dương trấn an nàng, bảo nàng chớ vội, sau đó lại đến nói mấy câu với huyện lệnh, rồi quay về bảo: huyện lệnh đã hứa sẽ cố gắng tìm thuyền lớn sớm nhất có thể, nhưng hôm nay thì e là không kịp, hỏi nàng có thể vào thành nghỉ một đêm được không.
Bồ Châu đành chấp nhận, chuyển hướng vào thành. Đêm ấy không nghỉ tại dịch xá. Thẩm Dương nói dịch xá đã gần như chật kín, điều kiện lại không tốt, vừa khéo có một phú hộ nghe tin Tần vương phi giá lâm, sẵn lòng nhường lại một nơi nghỉ chân, là một biệt viên rất yên tĩnh, nằm sâu trong thành.
Bồ Châu chỉ có thể vào ở theo sự sắp đặt. Hôm sau nàng giục hỏi, Thẩm Dương lại nói: huyện lệnh vẫn chưa tìm được thuyền đủ lớn để chở cả người lẫn ngựa, nhưng biết nàng rất gấp, nên từ sớm gã đã phái thân tín đi đường vòng trước, thay nàng báo tin về kinh đô.
Đến ngày thứ ba, thuyền lớn vẫn chưa thấy đâu, đã vậy từ sau khi nàng nghỉ chân tại đây, ngày nào cũng có nữ quyến nhà hào phú, sĩ tộc địa phương vì mến mộ danh tiếng của nàng nên tới thăm hỏi, mời nàng dự yến.
Tới ngày thứ tư, vào khoảng canh tư, trời còn tối đen như mực, chính là lúc người ta đang say giấc. Trong phòng cũng không thắp đèn, Bồ Châu mở mắt, mượn chút ánh trăng lờ mờ, nàng lặng lẽ xuống giường, đi đến cánh cửa phía sau, rón rén mở cửa, đang định bước ra ngoài thì bóng người bỗng khựng lại.
Quả nhiên, Lạc Bảo đang chờ bên ngoài cửa, trên lưng còn đeo tay nải, nhưng người thì quỳ bất động, cúi đầu không nói một lời.
Giữa sân còn có thêm một người nữa. Người ấy cầm một chiếc lồng đèn trong tay, ánh nến yếu ớt hắt lên gương mặt hắn. Hắn mở miệng nói: “Giờ mới canh tư, cách hừng đông vẫn còn rất lâu, Thẩm mỗ mạo muội hỏi một câu, vương phi không nghỉ ngơi mà muốn đi đâu vậy?”
Bồ Châu nhìn người đàn ông này.
Từ hôm thứ hai, khi gã bắt đầu viện cớ rằng không tìm được thuyền lớn thích hợp, nàng đã sinh nghi. Đến hôm qua, từ mấy lời tán gẫu bâng quơ của nhóm nữ tử đến bái phỏng, nàng mới biết cây cầu đó vốn không phải là con đường duy nhất. Nếu men theo hạ lưu, đi tiếp mấy chục dặm là có thể vượt sông, thế nên đã âm thầm sắp xếp, định nửa đêm rời đi.
“Người của ta đâu?” Nàng nhìn chằm chằm bóng người đứng giữa sân, mất một lúc lâu mới cất tiếng, giọng đã khàn hẳn đi.
“Yên tâm đi, họ không sao cả. Ta đã nghe lời nàng, cứu sống cái tên Diệp Tiêu kia thì sao có thể động đến một sợi tóc của họ? Ta thấy họ vất vả nên đã cho lui về nghỉ cả rồi.”
Hắn tiện tay đặt chiếc lồng đèn xuống, bước đến trước mặt Lạc Bảo vẫn đang quỳ dưới đất, quát một tiếng: “Cút.”
Lạc Bảo liếc nhìn về phía Bồ Châu, thấy nàng cũng đang nhìn mình, nhưng không nói gì, bèn cúi đầu, lẳng lặng rời khỏi nơi ấy.
Thẩm Dương ung dung bước qua ngưỡng cửa, đi tới trước bàn, châm đèn trên giá nến, rồi quay đầu nhìn nàng, dịu giọng nói: “Nàng cứ yên tâm ở lại đây, đừng nghĩ vẩn vơ, cũng đừng đi lung tung. Chỗ này rất an toàn, muốn ở bao lâu cũng được. Nếu không vừa ý, nàng cứ nói, ta sẽ tìm nơi khác cho nàng ở, đến khi nào nàng hài lòng mới thôi. Nhưng nàng lạ nước lạ cái, đừng tự tiện đi lại, nếu lạc đường thì chẳng hay ho gì. Nghỉ sớm đi, ta không làm phiền nữa.”
Bồ Châu giận đến cực điểm, ánh mắt rực lửa, căm phẫn nhìn hắn, nàng mắng: “Thẩm Dương, ta biết ngươi bụng dạ hiểm sâu, dã tâm khó lường, chuyện gì cũng dám làm, nên cũng chẳng lấy đó làm lạ. Nếu ngươi thật sự có bản lĩnh, ta còn có thể kính ngươi một tiếng hảo hán. Nhưng ta không ngờ, ngươi với bọn người ở Đồng Châu lại cùng một giuộc! Ngươi đúng là kẻ vô liêm sỉ, bỉ ổi nhất trong đời ta từng gặp!”
Thẩm Dương vốn đã xoay người định rời đi, nghe vậy thì bóng lưng cứng lại, từ từ quay đầu, nhìn nàng một lúc, bỗng mở miệng: “Thừa nhận cũng chẳng sao, đúng là cả quãng đường này ta đã âm thầm theo nàng. Nhưng lời ta nói với nàng đêm ấy trong dịch xá, không phải là giả, chuyện phóng hỏa quả thật không liên quan gì đến ta. Ta thấy lửa cháy nên mới xông vào, chẳng qua là để cứu nàng mà thôi.”
Bồ Châu lạnh lùng đáp: “Được tướng quân quan tâm đến thế, đúng là vinh hạnh của ta rồi.”
Thẩm Dương nhìn nàng một lúc, hừ lạnh: “Bồ thị, nàng cũng biết mà, ta thật lòng muốn tốt cho nàng. Nếu không phải nể mặt nàng, hôm đó dẫu có chết cả trăm tên Diệp Tiêu, cũng chẳng can hệ gì đến ta. Ta ngăn nàng vào kinh, giữ nàng lại nơi này, cũng là vì nàng. Là để bảo vệ nàng, không muốn nàng bị cuốn vào tranh đấu giữa hai phe Thái tử và Lưu vương.”
Bồ Châu ngây người.
Lời này là có ý gì?
Chẳng lẽ, đám người ở Đồng Châu kia thuộc phe Thái tử? Hoặc nói đúng hơn, là người của họ Thượng Quan? Nhưng còn Lưu vương thì sao? Hắn ta nhúng tay vào chuyện này từ khi nào?
Tâm trí Bồ Châu như có luồng sáng yếu ớt nào đó rọi vào, tựa hồ đã chạm đến manh mối nhưng vẫn chưa thật sự rõ ràng. Nàng lưỡng lự mất một thoáng, rồi cất tiếng hỏi: “Ý ngươi là gì?”
Thẩm Dương đáp: “Châu quan Đồng Châu là người của họ Thượng Quan. Bệ hạ đã chuẩn bị nhiều năm, chuyện Đông tuần rốt cuộc cũng sắp thành. Phong thiện Thái Sơn là biểu trưng cho thiên mệnh đế vương, hẳn nàng hiểu rõ điều ấy, mà họ Thượng Quan lại càng thấu đáo hơn ai hết. Nay Thái tử vốn đã không được lòng Thánh thượng, nếu đúng vào lúc then chốt này, Đồng Châu lại xảy ra dịch bệnh, nhỡ may phá hỏng việc phong thiện của bệ hạ, nàng thử nghĩ xem, nếu nàng là người của họ Thượng Quan, nàng sẽ làm gì?”
Bồ Châu trầm mặc.
“Họ sợ lại một lần nữa đánh mất Thánh tâm, càng sợ bị đối thủ chộp lấy cơ hội làm to chuyện. Nói để nàng biết, hôm ấy khi quan châu nhận được tin báo, đã dùng tám trăm dặm cấp báo, khẩn khẩn truyền tin về cho Thượng Quan Ung. Họ một lòng muốn ém nhẹm chuyện này, vậy mà nàng lại không biết điều, cứ nhất quyết muốn vào kinh báo tin. Giờ thì nàng đã rõ, đêm hôm đó, kẻ thực sự muốn nàng chết là ai rồi chứ?”
Trước đó, Bồ Châu cứ ngỡ châu quan vì lo giữ thành tích nên mới ra tay, nào ngờ phía sau lại có dây mơ rễ má với cả họ Thượng Quan.
Nàng đờ đẫn mất một lúc, rồi bỗng nhớ ra điều gì, vội hỏi: “Vậy Đồng Châu hiện giờ liệu đã phong tỏa chưa?”
Thẩm Dương nhìn nàng bằng ánh mắt như thể đang nhìn một tên ngốc, hỏi lại: “Nàng nói xem?”
Tim Bồ Châu đập thình thịch.
Nhà họ Thượng Quan đã quyết tâm giấu giếm chuyện này, sợ bị đối thủ dòm ngó, chộp lấy sơ hở để công kích, thì sao có thể để châu quan công khai phong thành, làm rùm beng cả lên?
“Vậy hiện giờ họ xử lý thế nào?” Nàng gặng hỏi.
Thẩm Dương không đáp.
“Ngươi nói mau!”
Đến đây, Thẩm Dương mới lạnh nhạt nói: “Còn có thể làm gì nữa? Đương nhiên là dồn hết những kẻ mắc bệnh vào một chỗ, rào lại, có thể trị thì trị, không trị được thì để họ chết sớm cho xong chuyện!”
“Vậy sẽ xảy ra đại họa mất! Ngô Chi Lâm đã nói rất rõ, theo kinh nghiệm của y, nhất thiết phải phong tỏa toàn bộ huyện thành, cắt đứt mọi tuyến giao thông trong ngoài! Giờ không làm, lỡ như bệnh dịch lan ra, chẳng lẽ họ không sợ à?”
Thẩm Dương đáp một cách dửng dưng: “Chẳng qua chỉ chết vài người mà thôi. Họ sẽ không để ai phá hỏng chuyện này. Đừng nói vài thôn xóm, dù có chết cả một huyện thì đã sao?”
Bồ Châu cố trấn định lại: “Vậy còn Lưu vương? Vừa rồi ngươi nói không muốn ta bị cuốn vào, chuyện này thì liên quan gì đến Lưu vương?”
Thẩm Dương đáp: “Cũng thật trùng hợp, hoặc có thể nói là ý trời. Lần này Lưu vương lại đồng hành cùng ta, thành ra nhà họ Hồ cũng sớm biết được chuyện này. Hiển nhiên mong họ đều mong rằng sự tình càng ầm ĩ càng tốt. Dịch bệnh chỉ lan trong một huyện thì sao đủ? Tốt nhất là lan ra khắp cả Đồng Châu, đến lúc đó, họ sẽ vin vào cớ ấy để công kích Thượng Quan Ung che giấu đại dịch. Nàng nói xem, đến lúc đó triều đình sẽ náo nhiệt đến chừng nào?”
“Giờ thì nàng hiểu rồi chứ? Cả hai bên đều không muốn tin tức bị truyền đến tai bệ hạ. Vậy mà nàng lại cứ nhất mực muốn dâng tấu. Nàng không chỉ đắc tội với nhà Thượng Quan, mà còn đắc tội cả với phe Lưu vương. Nàng không thể vào được kinh được đâu, phía trước trùng trùng trở ngại. Nếu nàng vẫn cố chấp tiến bước, thứ chờ đợi nàng, tất sẽ là những tai nạn “ngẫu nhiên” như vụ cháy vừa rồi. Ta giữ nàng lại là vì muốn tốt cho nàng, như thế thì có gì sai?”
Bồ Châu rốt cuộc đã hiểu, hiểu triệt để vì sao kiếp trước dịch bệnh lại lan tràn nghiêm trọng đến vậy.
Là họ Thượng Quan chỉ đạo châu quan giấu giếm, lại không nghe theo lời khuyên của Ngô Chi Lâm, khiến tình hình vượt khỏi tầm kiểm soát. Sau đó Hoàng đế một lòng muốn trừ khử Lý Huyền Độ, phát binh tấn công nước Khuyết, họ Thượng Quan một tay che trời, kịp thời tìm ra kẻ thế tội, nhanh chóng rũ sạch mọi liên can, cuối cùng không những bình an vô sự mà còn chẳng tổn hại chút nào.
Kiếp này, cục diện còn phức tạp hơn kiếp trước, tăng thêm một Lưu vương đang rục rịch hòng ngóc đầu nổi dậy.
Toàn thân nàng lạnh ngắt, như bị sốt rét hành hạ, từng đợt từng đợt rét run, ánh mắt vẫn dán chặt vào gương mặt của Thẩm Dương thì thấy gã mỉm cười như cũ, nhưng khí tức lại quỷ dị đến đáng sợ. Nàng gằn từng chữ, từng chữ một: “Thẩm tướng quân, nếu ngươi đã không đứng về bên nào, vậy ta cầu xin ngươi, lập tức thả ta đi!”
Thẩm Dương sững lại, liếc nhìn nàng một cái, hơi cau mày: “Sao nàng vẫn không chịu nghe lời? Cho dù ta thả nàng, nàng tưởng mình có thể đến được kinh thành mà không hề hấn gì ư?”
Bồ Châu đáp: “Đó là chuyện của ta. Ngươi có từng nghĩ đến chưa, chỉ dựa vào mấy tên quan lại ở Đồng Châu kia thì liệu có đủ sức khống chế được dịch bệnh không? Nếu đến cuối cùng, một mình Đồng Châu không đủ, lại lan ra những châu huyện khác, thậm chí đến tận kinh thành thì sao? Khi đó sẽ chết bao nhiêu người?”
Thẩm Dương vẫn không chớp mắt, chỉ nhàn nhạt nói: “Nàng lo xa quá. Huống chi, làm đại sự thì không thể câu nệ tiểu tiết. Tỷ như chiến sự chẳng hạn, không lẽ vì sợ chết người mà không đánh nữa chắc? Chết người thì đã sao? Về sau triều đình giảm thuế miễn sưu, đối với thiên hạ mà nói, chẳng phải đã là sự bù đắp rồi sao?”
Bồ Châu nghẹn lời.
Khoảnh khắc ấy, chẳng hiểu sao, nàng bỗng nghĩ tới Lý Thừa Dục.
Nếu người đứng trước mặt nàng lúc này là Lý Thừa Dục, nàng tin y sẽ không dùng giọng điệu vô cảm như thế để bàn chuyện sinh tử của muôn dân.
Nàng cũng đã ngộ ra, vị Nam Tư đại tướng quân ngoài miệng luôn nói sẽ bảo vệ nàng kia, trong chuyện này hẳn là muốn “tọa sơn quan hổ đấu”.
Nàng lại nói: “Ta hiểu rồi. Hiện giờ ngươi nói là bảo vệ ta, vậy sau này thì sao? Ngươi định xử trí ta thế nào? Muốn giữ ta lại đến bao giờ?”
Ánh mắt Thẩm Dương dừng lại trên người nàng.
Khoảng thời gian gần đây, có lẽ do bôn ba vất vả, cũng có lẽ vì tâm sự chất chồng, thân hình nàng gầy đi thấy rõ, khuôn mặt cũng trở nên thanh tú, sắc sảo hơn trước. Ánh nến chập chờn soi rọi lên dung nhan trắng nhợt của nàng, giờ phút này lại nhìn gã như thế, giống như một đóa lan mảnh mai hé nở giữa sương nguyệt, thực khiến người ta phải xót xa.
Giọng gã cũng vì thế mà dịu lại: “Trước tiên nàng cứ yên tâm ở lại, đợi mọi chuyện qua đi, ta sẽ xem tình hình rồi tính tiếp.”
Nói đến đây, gã hơi dừng lại.
“Bồ thị, nàng yên tâm, ta sẽ không làm hại nàng. Chỉ cần nàng chịu theo ta, cả đời này ta nhất định đối xử với nàng thật tốt.”
Đợi mọi chuyện qua đi, rồi xem tình hình?
Nghĩa là, nếu một ngày phe Thượng Quan thất thế vì chuyện này, gã sẽ nhân cơ hội này giấu nàng đi, biến nàng thành món đồ riêng trong hậu viện?
Cũng không phải không có khả năng.
Nhà Thượng Quan có thể phóng hỏa giết nàng, thì gã cũng có thể sắp đặt một trận hỏa hoạn khác, sau đó đổ hết tội lỗi lên đầu nhà Thượng Quan là xong.
Ánh mắt Bồ Châu xao động: “Lúc ta về quê cũ ở Tề Châu, dọc đường các dịch xá đều cung ứng chu toàn, thậm chí còn thấy cả vật tiến cống. Hôm ấy đến Nguỵ Châu, trong bữa cơm lại có cả cá ngân. Thẩm tướng quân, nếu ta đoán không lầm, hẳn là do ngài sắp xếp. Đa tạ.”
Thẩm Dương mỉm cười: “Chút việc nhỏ, đâu đáng nhắc tới. Chỉ cần nàng thích, thiên hạ có thứ gì, ta đều sẽ tìm được để dâng lên nàng.”
Bồ Châu bật cười, giọng mang theo ý mỉa mai: “Nghe khẩu khí của ngài, chẳng lẽ ngài cũng muốn làm Hoàng đế? Thảo nào lần này lại muốn ngồi trên núi xem hổ dữ cắn nhau. Ta nói cho ngài biết, nếu không phải số ta xui xẻo, bị Hoàng đế có dụng ý riêng gả cho Lý Huyền Độ, thì hiện giờ ta đã là Thái tử phi rồi. Dù là vậy, tới nay Thái tử vẫn còn nhớ thương ta. Cho nên những lời sáo rỗng như thế, sau này bớt nói trước mặt ta đi.”
Thẩm Dương nheo mắt, giọng chợt lạnh xuống: “Bồ thị, ta biết nàng có nhiều kẻ si mê, nhưng nếu đến giờ nàng vẫn còn ôm hy vọng vào Thái tử, e là sẽ phải thất vọng thôi.”
Bồ Châu nhìn thẳng vào hắn, nụ cười giễu cợt ban nãy dần tan biến, khẽ hỏi: “Thẩm tướng quân, ta không giống Đằng quốc phu nhân, được nhà mẹ đẻ chống lưng, lại càng không có quyền thế lẫy lừng như Trưởng công chúa. Rốt cuộc ngài xem trọng ta ở điểm nào?”
Trong đầu Thẩm Dương chợt hiện lên một cảnh tượng sau trận đấu mã cầu hôm ấy, vào một ngày thu đầy gió…
Nàng mồ hôi lấm tấm, gò má ửng hồng, nhảy thoăn thoắt xuống khỏi lưng ngựa, lại vô tình hất rơi mũ đội đầu, mái tóc dài xõa tung.
Khoảnh khắc ấy, gã cảm thấy từng sợi tóc kia như rơi thẳng vào tim mình, ngứa ngáy đến mức mấy đêm liền đều mất ngủ vì nó.
Mấy đêm đó, gã biết nàng đang nghỉ lại ngay trong gian trướng của Lý Huyền Độ, chỉ cách gã mấy bước. Cảm giác ấy, đặc biệt dày vò.
Gã lại nhớ tới ngày Trừ Tịch, nàng cùng nhóm tỳ nữ cắt dải lụa treo lên cành cây, cài lên tóc, vừa cười nói vừa đùa giỡn.
Hồi tưởng đến đó, sắc mặt âm trầm ban nãy của dần dịu xuống, trong đôi mắt thâm sâu như hồ nước thoáng hiện ánh sáng nhu hòa.
“Ta chỉ muốn đối tốt với nàng. Những phụ nữ khác, không ai sánh bằng nàng cả.”
“Lần này đi ngang qua, ta cũng đã đến trước mộ thân phụ nàng dâng hương tế bái, coi như tỏ chút tâm ý.”
Bồ Châu nhìn gã hồi lâu, bất chợt cười khẽ, vén nhẹ váy dài, một chiếc giày thêu liền từ gấu váy bay ra, rơi xuống ngay bên chân gã. Thấy gã cúi đầu nhìn chiếc giày, rồi lại ngẩng lên nhìn mình, nàng hơi hất cằm, nói: “Chẳng phải trước kia ngài từng nói, được thay giày cho ta là vinh hạnh của ngài hay sao?”
Ánh mắt Thẩm Dương dao động, tối sầm lại. Gã cúi người nhặt chiếc giày nàng đá tới, bước đến trước mặt nàng, ngồi xổm xuống, duỗi tay định thò vào gấu váy nàng.
Nào ngờ nàng đột ngột lui về một bước, lắc đầu như muốn đổi ý: “Thôi vậy, ban nãy chỉ là ta đùa với ngài thôi. Thẩm tướng quân, ngài đi đi.”
Nàng vén váy, một chân không mang giày, xoay người chạy đi, dáng vẻ giống như trốn chạy.
Thẩm Dương dõi theo bóng dáng thanh thoát của nàng, sao chịu để nàng thoát được dễ dàng thế kia. Gã đuổi theo, một tay kéo nàng lại, giữ chặt nàng sau một tấm bình phong.
Ánh nến hắt qua tấm bình phong, ánh sáng mờ ảo. Nàng dựa lưng vào đó, né tránh gã, hai tay giấu ra sau lưng, bật cười khúc khích: “Thẩm tướng quân, ngài không biết thẹn sao, đến cả thứ hương cao ta dùng cũng đi dò la? Có phải ngài đã từng ngửi rồi không? Ta để ngài ngửi thử tóc ta, xem có phải là mùi đó không nhé?”
Cõi lòng Thẩm Dương xao xuyến không thôi, liền thuận theo lời nàng, cúi đầu sát lại.
Gã nhắm hờ mắt, hít thử mùi hương dìu dịu vương trên tóc nàng, hương thơm dịu dàng khiến trái tim gã rung động, không thể dằn lòng thêm nữa, đang định ôm nàng vào trong phòng thì đúng lúc ấy, phía sau đầu truyền tới cảm giác đau điếng, cơn đau dữ dội như xé toạc lan ra, tai ù hẳn đi, thân mình ngã vật xuống đất.
Lạc Bảo cầm chặt cây gậy trong tay, nhìn chằm chặp Thẩm Dương đang ngã lăn dưới đất, hôn mê bất tỉnh, rồi hỏi: “Vương phi, người không sao chứ?”
Bồ Châu đáp: “Ta không sao!”
Nàng chạy vội vào nội thất, mang ra một sợi dây thừng đã chuẩn bị sẵn từ trước, cùng Lạc Bảo trói chặt tay chân gã lại, sau cùng còn dùng giẻ nhét kín miệng gã.
Lạc Bảo thân thủ lanh lẹ, vác Thẩm Dương lên lưng. Bồ Châu cầm theo một con dao găm, bước ra ngoài, ra lệnh cho đám thuộc hạ của Thẩm Dương đang canh giữ bên ngoài lập tức giao trả xe ngựa và những người đang bị giam giữ.
Nàng thuận lợi lên xe ngựa, kéo cả Thẩm Dương lên cùng, men theo con đường đã dò hỏi kỹ từ mấy ngày trước, lao thẳng về phía kinh đô.
Cú đánh vừa rồi của Lạc Bảo rất nặng, mãi đến gần sáng, Thẩm Dương mới dần tỉnh lại.
Gã nằm ngửa dưới chân nàng, chau mày, bật ra một tiếng rên đau đớn. Thấy nàng đang lạnh lùng nhìn mình, sắc mặt không đổi, gã ra hiệu muốn nàng tháo thứ đang nhét kín trong miệng mình ra.
Bồ Châu giúp gã gỡ bỏ miếng vải nhét miệng.
Thẩm Dương khàn giọng nói: “Việc nàng bỏ trốn đêm qua cũng nằm sẵn trong kế hoạch, đúng không?”
Bồ Châu đáp: “Bằng không thì sao? Ta cố ý hỏi đường người khác, chẳng qua cũng để khiến ngươi sinh nghi. Hạng người tinh tường như ngươi, nếu ta không để ngươi bắt được ta trước, sao ngươi có thể mắc lừa?”
Thẩm Dương nhắm mắt, thở ra một hơi dài, rồi lại lần nữa mở mắt, lạnh giọng nói: “Ta đã nói rồi, dù nàng có lên đường, cũng không thể lọt qua các ải. Cho dù nàng bắt ta làm con tin thì thuộc hạ của ta vẫn sẽ đuổi theo phía sau, chắc chắn sẽ không bỏ qua, chưa kể hai gia tộc kia cũng đang chờ nàng phía trước.”
Bồ Châu đưa tay sờ quanh hông gã, lục tìm mấy lượt, cuối cùng cũng lần được lệnh bài mà gã mang theo khi nhận lệnh ra ngoài làm việc, giật xuống.
“Thẩm tướng quân yên tâm, ta chỉ mượn tạm lệnh bài của ngươi thôi. Còn người, ta không dám giữ trong xe quá lâu đâu. Tới chỗ thích hợp, tự khắc sẽ thả ngươi xuống.”
Sắc mặt Thẩm Dương cứng đờ, chỉ có thể trơ mắt nhìn nàng cất lệnh bài đi, hồi lâu sau mới nghiến răng nói: “Thẩm mỗ nhận thua dưới tay nàng! Nhưng ta thực sự không hiểu, Lý Huyền Độ tuy mang danh Tần vương nhưng bản thân khó giữ, tiền đồ ra sao còn chưa biết. Rốt cuộc nàng xem trọng hắn ở điểm nào? Ta tự thấy mình cũng không bạc đãi nàng, một người thông minh như nàng, cớ sao lại không biết thời thế?”
Bồ Châu nói: “Thẩm Dương, quyền thế vốn là thứ tốt đẹp, ta cũng muốn có. Nhưng cái gọi là “biết thời thế” mà ngươi vừa nói ấy, thứ lỗi, ta không thể tán đồng. Dịch bệnh ở Đồng châu, ta nhất định phải bẩm báo lên trên! Ngươi từng cứu Diệp Tiêu, ta ghi nhận và biết ơn lòng tốt ấy, những điều ngươi nói với ta tối qua, ta tuyệt đối sẽ giữ kín, không hé ra với bất cứ ai, kể cả Lý Huyền Độ. Về phần sau này việc của ngươi có thành hay không, thì tùy vào số phận của ngươi thôi!”
Xe ngựa đang lao vun vút trên quan đạo, tới một đoạn dốc hiểm thì buộc phải giảm tốc. Đợi đến khi đoàn người bám theo phía sau dần rút ngắn khoảng cách, Bồ Châu mở cửa xe, đẩy mạnh Thẩm Dương ra ngoài, để gã lăn lông lốc xuống con dốc, sau đó đóng sầm cửa xe lại, hạ lệnh phi nhanh về phía kinh đô.
Xe ngựa lao vút như tên bắn trên quan đạo, ngày đêm không nghỉ. Mỗi khi đến trạm gác, chỉ cần xuất trình lệnh bài của Thẩm Dương là được thông qua không chút trở ngại. Cứ như thế đi suốt mấy ngày, rốt cuộc cũng tiến vào địa phận kinh kỳ, kinh đô thấp thoáng hiện ra nơi chân trời xa tít.
Chiều tà, xe ngựa tới cổng phụ phía Đông của kinh đô. Đây là nơi được binh sĩ canh gác nghiêm ngặt, kiểm tra kỹ lưỡng từng cỗ xe, từng người qua lại. Khi đến lượt xe của Bồ Châu, người đi theo liền xuất trình lệnh bài của Thẩm Dương, nói là phụng mệnh hồi kinh, có công vụ khẩn cấp, yêu cầu lập tức cho qua.
Mấy viên lính gác lật đi lật lại tấm lệnh bài trong tay, ánh mắt vẫn còn chút ngờ vực, đang do dự chưa quyết, thì một viên đầu mục bước tới, đón lấy lệnh bài xem qua, sau đó tiến lại gần xe, cung kính nói: “Không phải tiểu nhân cả gan ngăn trở nhưng cấp trên có lệnh, bất kể là ai, nếu muốn vào thành thì đều phải trình diện để kiểm tra. Liệu có thể mời người trong xe xuống để đối chiếu hay chăng?”
Rèm cửa xe vẫn buông kín, không động tĩnh gì. Viên đầu mục đưa mắt ra hiệu cho binh sĩ, vài người tiến lên chuẩn bị đến gần xe. Ngay lúc ấy, cửa xe bỗng bị đẩy tung, một đại hán mặt đầy vết sẹo nhìn ra, đầu quấn băng vải như thể bị thương, ánh mắt lạnh lẽo quét ra ngoài.
Viên đầu mục giật mình, thấy không phải người mình cần tìm thì lùi lại, hạ lệnh cho thông quan.
Đêm khuya, xe ngựa tiến vào cổng Đông thành của kinh đô, sau khi dùng lệnh bài Thẩm Dương để thông quan lần nữa thì bí mật đi thẳng đến cung Bồng Lai. Trần nữ quan bước ra đón, thấy Diệp Tiêu đêm hôm gấp rút tới nơi thì vô cùng kinh ngạc, hỏi rõ sự tình xong liền thất sắc, lập tức dẫn hắn nhập cung, diện kiến Khương thị.
Hoàng đế bị đánh thức từ trong mộng, ngồi thừa liễn đến chỗ Thái hoàng Thái hậu Khương thị, nghe tin dịch bệnh bùng phát ở Đồng Châu, châu quan che giấu, đại phu Ngô Chi Lâm bất chấp nguy hiểm khẩn thiết tấu trình, nhờ Tần vương phi truyền tới Thánh thính.
Hoàng đế nổi trận lôi đình, tức tốc hồi cung, triệu tập bá quan cùng ngự y vào điện nghị sự ngay trong đêm, cuối cùng hạ lệnh để Đoan vương cùng Quảng Bình hầu Hàn Vinh Xương làm chính – phó giám sát sứ, dẫn theo quan viên Thái y viện khẩn trương lên đường tới Đồng Châu, dập tắt dịch bệnh bằng mọi giá và điều tra rõ nguyên nhân.
Trời vừa hửng sáng, khi bên trong vẫn còn tiếng nghị luận rôm rả của các đại thần, Đoan vương và Hàn Vinh Xương phụng chỉ xuất kinh, thẳng tiến Đồng Châu.
Trong cung Bồng Lai, ánh sáng ban mai chiếu rọi, Thái hoàng Thái hậu Khương thị ngồi trong điện Gia Đức, lắng nghe Tống Trường Sinh do Hoàng đế phái đến báo cáo tình hình. Khi nghe đến chuyện giữa buổi triều hội, Thượng Quan Ung đã chủ động đứng ra nhận tội, trách mình dùng người không thỏa đáng, thậm chí còn bật khóc ngay trước điện rồng, thần sắc bà trở nên lạnh nhạt.
Bà nghĩ ngợi một lúc, quay sang hỏi Trần nữ quan: “Đứa nhỏ ấy hiện đang ở đâu?”
Trần nữ quan đáp: “Diệp Tiêu nói nàng ấy đổ bệnh dọc đường, lại sợ tới trạm kiểm tra phía trước sẽ gặp rắc rối, nên đã xuống xe từ giữa đường, để Diệp Tiêu thay nàng vào kinh truyền tin. Nàng không nói rõ là đến đâu, chỉ bảo là tạm lánh ở chỗ người quen, không tiện tiết lộ nên không nói cụ thể được. Cuối cùng, nàng dặn Diệp Tiêu cứ yên tâm. Người ấy đáng tin, không có gì đáng lo. Đợi khi bệnh khá hơn, nàng sẽ tự quay về kinh.”
Sắc mặt Khương thị hiện rõ vẻ lo lắng, đang định mở miệng thì Lý Tuệ Nhi đã từ ngoài điện chạy vào, quỳ gối bên chân bà, mắt hoe đỏ: “Hoàng a thẩm hiện đang ở đâu vậy ạ? Bao giờ hoàng thúc mới về đây? Con muốn đi đón người!”
Truyện Hoàng Dung, truyện dịch, truyện chữ... nơi bạn đọc những truyện chất lượng nhất. Đọc truyện là thỏa sức đam mê.

Đăng nhập để bình luận