Truyện Hoàng Dung
  • Nam  
    • Linh dị
    • Đồng nhân
    • Trùng sinh
    • Xuyên không
    • Lịch sử
    • Quân Sự Xây Dựng
    • Khoa Huyễn
    • Dị giới
    • Dị năng
    • Huyền ảo/Kỳ Ảo
    • Đô thị
    • Kiếm hiệp
    • Tiên Hiệp
    • Hàn Quốc
    • Cổ Đại
    • Hiện Đại
    • Tương Lai
    • Ma Pháp
    • Game / Thể Thao
    • Tu Chân
    • Xuyên Nhanh
    • Hệ Thống
    • Hài Hước
    • Huyền Học/ Âm Dương Sư/ Phong Thuỷ ...
    • Tận Thế
    • Teen
    • Sinh Tồn
    • Võ Hiệp
    • Quan trường
    • Đam Mỹ
    • Fan fiction
    • 12 Chòm Sao
    • Tây Du
    • Sắc
    • Trinh thám
    • Hacker
    • Hắc Ám Lưu
    • Harem
    • Phiêu Lưu
    • Vô Địch Lưu
    • Xuyên Sách
    • Sủng Thú
    • Truyện Xuất Bản Thành Sách
    • Vô Hạn Lưu
    • Tài Liệu Riêng
    • Thăng cấp lưu
    • Não To
    • Truyện dịch Free
    • Thủ Thành
    • Nhật Bản
    • Thần Thoại/Dã Sử
    • Hồng Hoang
    • Cẩu Huyết
    • Đấu Trí
  • Nữ  
    • Trùng sinh
    • Xuyên không
    • Ngôn tình
    • Huyền ảo/Kỳ Ảo
    • Đô thị
    • Tiên Hiệp
    • Cổ Đại
    • Hiện Đại
    • Game / Thể Thao
    • Cung Đấu
    • Tình Cảm
    • Ngọt Sủng
    • Nữ Cường
    • Vườn Trường/Thanh Xuân/ Thanh Mai T...
    • Xuyên Nhanh
    • Bách Hợp
    • Giới Giải Trí/ Showbiz
    • Hệ Thống
    • Truyện Việt Nam
    • Tản Mạn
    • Tác Phẩm Nước Ngoài
    • Hài Hước
    • Huyền Học/ Âm Dương Sư/ Phong Thuỷ ...
    • Tận Thế
    • Thiếu Nhi
    • Ngược
    • Teen
    • Quân Nhân
    • Đoản Văn
    • Fan fiction
    • Điền Văn
    • 12 Chòm Sao
    • Mỹ Thực
    • Bác Sĩ/ Y Thuật
    • Hào Môn Thế Gia
    • Phiêu Lưu
    • Vô Địch Lưu
    • Làm Giàu
    • Xuyên Sách
    • Sủng Thú
    • Truyện Xuất Bản Thành Sách
    • Niên Đại Văn
    • Vô Hạn Lưu
    • Trạch đấu
    • Tài Liệu Riêng
    • Thăng cấp lưu
    • Não To
    • Truyện dịch Free
    • Thủ Thành
    • Nhật Bản
    • Vả Mặt
    • Phản Công
    • Song Trọng Sinh
    • Nuôi Bé
    • Tổng Tài Bá Đạo
    • Thần Thoại/Dã Sử
    • Hồng Hoang
    • Cẩu Huyết
    • Đấu Trí
  • Danh Mục  
    • Tìm kiếm Truyện  
    • Truyện dịch  
    • Truyện sáng tác  
    • Bảng Xếp Hạng  
    • Truyện trả phí  
    • Truyện đề cử  
    • Truyện đã hoàn thành  
    • Truyện convert  
  • Thông báo  
    • Tuyển dụng  
  • Hướng dẫn  
    • Hướng Dẫn Sử Dụng Trang Web  
    • Hướng Dẫn Nạp Tiền  
    • Hướng Dẫn Đăng Truyện  
  • Facebook
  • Đăng nhập | Đăng ký

Đăng ký


A PHP Error was encountered

Severity: Notice

Message: Undefined variable: captcha_image

Filename: inc/menu.php

Line Number: 130

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập ngay

Đăng nhập

Quên mật khẩu

Bạn chưa có tài khoản? Đăng ký ngay

Quên mật khẩu

loading
Chúng tôi đã gửi mật khẩu mới về email của bạn

Bạn chưa có tài khoản? Đăng ký ngay

  1. Trang Chủ
  2. Trùng sinh
  3. Bồ Châu (Dịch)
  4. Chương 84: Thủy Chung Cây Sáo Hạc

Bồ Châu (Dịch)

  • 15 lượt xem
  • 4778 chữ
  • 2025-12-11 16:27:43

Bấm trên máy tính để sang chương tiếp theo và bấm để quay lại chương trước

Cấu hình

Cấu hình sẽ lưu lại trên thiết bị của bạn.

Từ kinh đô đến Tề Châu, đường sá thông suốt, nhưng do khoảng cách xa xôi, đi một chuyến cũng mất đến hơn một tháng. Đoàn người đi thẳng về hướng Đông, ngang qua rất nhiều châu huyện. Ở mỗi thành trấn đều tập trung dân cư đông đúc, phố xá phồn hoa. Dẫu chỉ là làng mạc ven đường thì cũng là cảnh ruộng đồng nối liền ngàn khoảnh, đàn ông cày cấy, phụ nữ dệt vải, vẽ nên bức tranh thái bình thịnh thế.

Chuyến hồi hương tế tổ lần này của nàng tuy là chuyện riêng, nhưng cũng có thể xem là chuyện công. Vì hành trình không gấp, đoàn đi ban ngày, nghỉ ngơi ban đêm, dừng chân tại các dịch xá ven đường. Ở mỗi nơi, dịch thừa đều tiếp đón niềm nở, không chỉ phục vụ chu đáo miễn bàn mà món ăn cũng vô cùng tuyệt hảo, tinh tế vượt xa sự mong đợi của nàng, nào là hoa quả vùng Giang Hoài, kẹo mạch nha vùng Hà Tế, mật ong bách hoa tinh chế, đều là vật phẩm tiến cống. Có hôm đi ngang qua dịch xá ở Ngụy Châu, bữa tối mang lên, trong mâm cơm còn có cả món cá ngân.

Hiện đang đúng mùa cá ngân béo mẩy nhiều trứng, song loài cá này chỉ sinh sản ở Giang Nam. Ở kinh đô, nếu vào mùa này mà trên bàn tiệc xuất hiện cá ngân tươi sống, ắt sẽ bị xem là một kiểu khoe mẽ xa xỉ. Nguyên do là bởi sản lượng cá ngân vốn ít ỏi, vừa rời nước đã chết, vô cùng yếu ớt, muốn đưa vào kinh đô, phải thay nước tưới mỗi ngày, dùng thuyền tốc hành chuyên chở cả ngày lẫn đêm, nhưng kể cả thế thì khi về đến kinh thành cũng bị chết mất quá nửa. Vì một miếng ngon mà hao công tốn của như thế, có thể nói là xa hoa tột độ. Vậy nên, trước đây Khương thị từng hạ lệnh, yêu cầu loại bỏ món này khỏi danh sách vật phẩm tiến cống theo mùa.

Nơi này cũng không phải Giang Nam, dù điều kiện dịch xá có tốt đến mấy thì cũng không thể chuẩn bị nổi mặt hàng tươi sống này. Bồ Châu cũng điểm lại từng nơi mà nàng đã dừng chân ven đường, gần như dịch xá nào cũng cung phụng vượt xa mức bình thường.

Ban đầu nàng chỉ lấy làm lạ, tưởng rằng do nàng phụng chỉ xuất hành nên dịch thừa mới dốc lòng cung ứng, cũng chẳng suy nghĩ sâu xa, mãi đến đêm nay, khi chuẩn bị tắm rửa, khi nàng hỏi đến cao tắm thì tỳ nữ hốt hoảng thưa rằng: loại cao tắm nàng quen dùng chẳng may bị dính nước, đã hỏng mất rồi.

Những vật dụng cá nhân như chăn đệm, kem thơm, cao tắm… đều được nàng mang theo trước khi lên đường, dịch xá không cần phải chu cấp, giờ đồ mang theo đã hỏng, Bồ Châu bèn sai tỳ nữ lấy tạm bánh xà phòng có sẵn của dịch xá để thay thế, không ngờ khi nhận vào tay lại là sản phẩm do Nội phủ điều chế, càng trùng hợp hơn, mùi hương ấy lại chính là loại hương hoa mà nàng hay dùng nhất.

Đến đây, nàng linh cảm được có điều bất thường, bèn sai Lạc Bảo, người đi cùng với mình, tìm dịch thừa hỏi cho ra nhẽ.

Lạc Bảo trở về, thuật lại lời giải thích của dịch thừa.

Về chuyện ăn uống, nơi này là cửa ngõ kênh đào, vận tải đường thuỷ phát triển, mỗi ngày đều có nhiều thuyền buôn, vận chuyển đủ các loại hàng hóa khác nhau đi về kinh thành. Cá ngân tuy đắt, nhưng cũng không phải vật hiếm lạ.

Còn về cao thơm, tuy bên ngoài khó tìm, nhưng dịch xá này là nơi quý nhân thường xuyên ghé tới. Hơn nữa gần đây dịch thừa còn nhận được tin báo: mùa xuân sang năm Hoàng đế sẽ du hành về phía Đông, trong khi nơi này lại là con đường bắt buộc phải đi qua, đến lúc đó sẽ có càng nhiều quý nhân nghỉ lại, để đảm bảo tốt nhất về mặt tiện nghi, họ không thể không chuẩn bị sẵn những sản phẩm do Nội phủ sản xuất. 

Mặc dù Bồ Châu vẫn cảm thấy kỳ lạ, nhưng cũng không tiện truy hỏi vì sao cao tắm có mùi hương nàng hay dùng. Dù sao đây cũng là chuyện riêng tư, thế nên nàng đành cho qua.

Cứ như vậy, dọc đường ăn uống thỏa thuê, đi đi nghỉ nghỉ, mãi đến gần cuối năm, nàng mới về tới quê nhà.

Tổ phụ nàng nhập triều làm quan từ thời còn trẻ, Bồ Châu cũng sinh ra ở kinh đô, cho đến năm nàng tròn tám tuổi, phụ thân nàng bỏ mạng ở nước khác, chẳng bao lâu sau mẫu thân cũng bệnh nặng và qua đời, khi ấy, nàng theo người đỡ quan về quê một chuyến, lập mộ gió cho phụ thân, hợp táng với mẫu thân.

Ngoài lần ấy ra, nàng không còn ký ức gì khác về quê cũ. Huống hồ năm xưa, vì tổ phụ nên họ hàng trong tộc chịu liên lụy, bị đày ra biên giới, ai nấy đều mang nặng thành kiến với nàng, dù về sau nàng quay lại kinh đô thì cũng không liên lạc gì với họ nữa.

Chuyến hồi hương lần này lại hoàn toàn khác biệt. Tộc nhân họ Bồ đã sớm hay tin nàng phụng chỉ về quê tế tổ, hôm nàng tới nơi, ai nấy đều cùng huyện lệnh ra tận ngoài thành nghênh đón từ xa, đưa nàng về cố trạch, tiếp đãi ân cần, nịnh nọt đủ kiểu. 

Hồi nhỏ nàng từng oán trách tộc nhân vì đã trút giận lên đầu mình, nhưng giờ đây, nàng đã suy nghĩ thông suốt. Chỉ là người cùng họ mà thôi, bỗng dưng bị vạ lây, mất hết mọi thứ vốn có, còn bị đày ra biên cương lao dịch khổ sở, nói là tai họa từ trên trời giáng xuống cũng không quá, nên oán hận cũng là lẽ thường tình.

Chuyện cũ đã qua rồi. Nay họ muốn làm lành, nàng hà tất phải giữ mãi trong lòng không buông? Thế nên nàng đã dùng lễ thông thường để đối đãi.

Những ngày đầu sau khi hồi hương, mỗi ngày đều có nữ quyến nhà phú hộ hoặc sĩ thân trong huyện đến thăm viếng, nàng vừa tiếp đón, vừa bận rộn lo việc tu sửa phần mộ. Đến ngày dựng tấm bia công đức do Hoàng đế ban tặng trước phần mộ tổ phụ, hầu như toàn bộ quan lại và sĩ nhân trong huyện đều tề tựu đông đủ, tế bái Bồ công, kính cẩn đọc văn bia, cảm niệm ân đức sâu dày của Hoàng đế đương triều, có người còn ngâm thơ đề phú tại chỗ, cảnh tượng náo nhiệt chẳng khác gì một phiên chợ.

Bồ Châu mỉm cười đứng bên quan sát, lấy thân phận gia chủ để cảm tạ mọi người, song khi nhìn khối bia có khắc ngày sinh ngày mất dựng trước mộ tổ phụ, cảm xúc lẫn lộn giống như là một mớ bòng bong.

Không biết dưới suối vàng, tổ phụ cảm nhận thế nào về “vinh dự” mà người nhận được hôm nay, sẽ thấy vui, hay thấy buồn?

Nàng không biết. Nàng chỉ cảm thấy hài hước. Đối với nàng, tất cả chẳng khác gì màn kịch.

Chừng nửa tháng sau khi nàng hồi hương, gần đến cuối năm, mọi việc mới dần lắng xuống.

Tuy không có bao nhiêu tình cảm với mảnh đất quê hương, nhưng cha mẹ nàng đều an táng ở đây, trong lòng nàng, nơi này mới thực sự là nhà, so với vương phủ kia, thì còn gần gũi hơn gấp bội.

Lý Huyền Độ còn lâu mới về, mà cho dù hắn sắp về, nàng cũng chẳng vội rời đi.

Cái Tết năm ấy, nàng ở lại cố trạch đón xuân, sống một cuộc sống an nhàn, thư thái.

Sáng ngày trừ tịch, theo phong tục, nàng ra mộ phần của cha mẹ, phát hiện đã có người quét dọn, cúng tế từ trước rồi.

Nàng tưởng là người trong tộc nên cũng không nghĩ ngợi nhiều, chỉ bày hoa quả và rượu trắng mà mình mang theo, quỳ trước phần mộ hợp táng của song thân, lặng lẽ khấn vái.

Sau đó nàng xoay người, hướng về nơi chôn cất di hài của phụ thân, vẩy rượu, lễ bái từ xa. Về đến nhà, theo đúng phong tục đang thịnh hành, nàng cùng các tỳ nữ cắm cành đào trừ tà lên cửa sổ, dán câu đối xuân, rồi dùng kéo cắt nhiều dải lụa xanh tượng trưng cho ý nghĩa đón xuân, treo lên mái hiên trước sau cùng cây cối trong sân.

Nhớ lại cảnh tượng khi còn bé, trong lòng bỗng dâng trào niềm vui thơ trẻ, nàng còn cắt thêm mấy dải lụa xuân nhỏ, tự cài lên tóc mai, rồi bảo các tỳ nữ cũng cài, người này bảo: “Cô cài lệch rồi kìa!”, người kia nói: “Ta muốn cài thêm một cái nữa cơ!”, chẳng mấy chốc, tiếng cười khúc khích tràn ngập khắp một góc nhà.

Chính như câu thơ: “Khói biếc rơi theo đầu mũi kéo, tóc mai như ve động gió xuân.” Trên đầu mỹ nhân, dải lụa xuân lay động phơ phất, lấy đó làm niềm hân hoan, nghênh đón mùa xuân mới lại về.

Chiều hôm ấy, nàng xách theo một cây nến, giẫm lên một cái thang cũ kỹ phát ra từng tiếng kêu “kẽo kẹt”, leo lên một căn gác, nơi cất giữ những di vật khi còn sống của phụ thân.

Năm ấy phụ thân mất, tổ phụ từng có ý từ quan hồi hương. Khi nàng đưa linh cữu trở về, ông đã đem một số di vật của phụ thân đặt vào rương gỗ, cho người đưa về quê nhà trước.

Nàng nhớ bên trong phần nhiều là bút cũ mực khô, sách cổ giấy vàng, cùng một số ghi chép vụn vặt của phụ thân, biết đâu bây giờ vẫn còn nguyên.

Tối nay không có việc gì làm, bỗng dưng nhớ lại chuyện xưa, nàng liền trèo lên gác, muốn tìm lại những thứ năm xưa rồi sắp xếp cho ngay ngắn.

Căn nhà cũ này của Bồ gia vốn là một ngôi cổ trạch, tuy diện tích không nhỏ nhưng vì bỏ hoang nhiều năm nên từ lâu đã mục nát điêu tàn. Lần này biết nàng muốn hồi hương, người trong tộc đã quét dọn, sửa chữa nơi này một lượt nhưng riêng căn gác nhỏ dùng làm kho chứa đồ thì vẫn chưa động tới.

Căn gác nhiều năm không có người ra vào, vừa bước lên, Bồ Châu đã bị mùi ẩm mốc và bụi bặm nồng nặc xộc thẳng vào mũi.

Nàng lấy tay áo che mũi, soi đèn nến dò đường, nghiêng người tránh tấm mạng nhện rũ xuống ngay trước mặt, đảo mắt nhìn quanh, chẳng mấy chốc đã thấy chiếc rương dưới đống đồ cũ nằm chỏng chơ ở một góc.

Nàng kéo rương ra, phủi đi lớp bụi dày phủ kín bên trên, rồi mở nắp.

Đúng như ký ức của nàng, bên trong đều là di vật của phụ thân, nhưng số lượng đã chẳng còn bao nhiêu, không ít sách vở đã biến mất. Trải qua nhiều năm, lại không được ai trông giữ nên đa số đã bị người khác lấy đi từ lâu, chỉ chừa lại một ít bản thảo mà trong mắt người khác là chẳng đáng mấy đồng.

Bồ Châu thầm thở phào, vội gom lại những bản thảo ấy, sắp xếp theo thứ tự thời gian, phát hiện đó là du ký Tây hành trong mười năm phụ thân nàng đi sứ, từ năm Tuyên Ninh thứ hai mươi bảy, lần đầu tiên xuất quan, đến năm Tuyên Ninh thứ ba mươi bảy, khi ông gặp nạn. Suốt mười năm ấy, mỗi khi ghé qua các nước, ông đều ghi lại một cách tỉ mỉ những điều mắt thấy tai nghe, từ phong thổ, dân tình đến những điều cấm kỵ, những chuyện kỳ lạ được truyền miệng ở từng nơi, gặp chuyện gì, làm việc gì, đều được ghi chép tường tận. Tuy chỉ còn lại một phần, những phần còn lại đều đã thất lạc, nhưng với Bồ Châu, phát hiện này chẳng khác gì tìm được kho báu.

Tựa như vượt qua ranh giới sinh tử và không gian, nàng có cảm giác bản thân lại biến thành cô bé được phụ thân bế ngồi trên gối năm nào, được nghe ông kể về hành trình đi về phía Tây.

Không màng bụi bặm dưới sàn, nàng ngồi luôn bên mép rương, cầm bản thảo của phụ thân đọc một cách ngấu nghiến như kẻ đói khát tìm được lương thực, cho đến tận khuya, tay chân tê cứng mất đi cảm giác nhưng nàng không hề cảm nhận được gì, cũng không hề cảm thấy mệt mỏi. Cuối cùng, nàng đọc đến cuốn nhật ký ghi chép hành trình cuối cùng của phụ thân khi đi sứ tới thành Ngân Nguyệt.

Nàng nhớ rất rõ, cuốn nhật ký này được đưa về cùng với những di vật khác của phụ thân, người đưa về là một tùy tùng may mắn sống sót sau cuộc tập kích. Khi ấy nàng còn nhỏ, chưa từng xem qua, mẫu thân nàng nhìn vật nhớ người, lần nào cũng đau lòng rơi lệ, nên bà đã cất hết những thứ liên quan đến phụ thân. Sau nhiều lần chuyển dời, chúng mới trôi dạt về căn nhà này, để rồi hôm nay, qua bao năm tháng, lại được nàng mở ra xem.

Mang theo tấm lòng thành kính, Bồ Châu đọc kỹ từng chữ từng dòng về những việc được phụ thân dùng bút ghi lại trong khoảng thời gian cuối cùng của cuộc đời.

Đang đọc, ánh mắt Bồ Châu chợt khựng lại.

Năm Tuyên Ninh thứ ba mươi sáu, vào mùa thu, phụ thân một lần nữa phụng mệnh cầm tiết phù, dẫn đầu sứ đoàn, xuất quan sang Tây Vực.

Năm đó, Kim Hi, khi đó vẫn còn là Trưởng công chúa, đã xuất giá sang Tây Địch được sáu năm. Nhờ vào sự khéo léo và những nỗ lực không ngừng nghỉ của nàng, người phụ nữ xinh đẹp và kiên cường ấy không chỉ chiếm được tình cảm của trượng phu là vương tử Tây Địch, mà còn được dân chúng nơi đây công nhận và yêu mến. Họ lấy tên con sông bao quanh thành trại đã nuôi sống họ từ đời này sang đời khác để gọi nàng là vương phi Ngân Nguyệt. Cũng chính trong năm ấy, vương tử Tây Địch thuận lợi đăng cơ và đã thề rằng: chỉ cần y còn tại vị một ngày thì mối quan hệ tốt đẹp với triều Lý sẽ được duy trì thêm một ngày.

Chuyến đi lần ấy, mục đích chính của phụ thân là tới thành Ngân Nguyệt, tham dự lễ kế vị của tân vương Tây Địch.

Trong số những dòng ghi chép của phụ thân, Bồ Châu nhìn thấy hai chữ “Túc Viễn”. Nàng biết đấy là tên tự của Khương Nghị.

Trước ngày khởi hành, người bằng hữu thân thiết với ông – Đại tướng quân Nam Tư Khương Túc Viễn – đã đích thân tiễn ông ra khỏi Tây thành hơn hai mươi dặm. Mãi đến biệt đình ngoài thành, nơi nhắc nhở người đưa tiễn rằng không nên đi xa hơn nữa, hai người mới ghìm cương dừng ngựa.

Phụ thân từng viết, hôm ấy vừa khéo là sinh nhật của bằng hữu. Ba mươi hai tuổi, sáu năm sau, y vẫn chưa lấy vợ. Trong lòng ông dâng lên muôn phần cảm khái, trước lúc rời đi, không kìm được mà nói: “Nếu quân có điều gì muốn nhắn gửi, ta xin làm cánh nhạn đưa thư.”

Khương Túc Viễn nhìn về phía Tây Cực, mỉm cười lắc đầu: “Không có gì để nói cả. Chúc quân thượng lộ bình an.” Dứt lời liền quay đầu ngựa, thúc ngựa rời đi như bay.

Tim Bồ Châu như đập nhanh hơn, đoạn ấy được nàng đọc đi đọc lại hai lần, dường như đã hiểu ra điều gì, liền vội vàng lật sang những trang tiếp theo.

Cái tên “Túc Viễn” lại một lần nữa xuất hiện dưới bút của phụ thân, nhưng là ba tháng sau đó.

Năm Tuyên Ninh thứ ba mươi bảy, ông tới thành Ngân Nguyệt, yết kiến Kim Hi.

Tuy trượng phu của Kim Hi thuận lợi kế vị ngôi vương Tây Địch, nhưng vì sức ép từ nội tộc, ngay khi đăng cơ, y đã cưới thêm một quý nữ Tây Địch làm phi.

Phụ thân nàng tham gia lễ kế vị, thay mặt Hoàng đế triều Lý tuyên đọc chiếu thư ban ân cho Tây Địch vương. Đến ngày rời đi, Trưởng công chúa Kim Hi đích thân tiễn ông ra bờ sông Ngân Nguyệt, trao cho ông một cây sáo cửu cao, nhờ ông mang về cho Khương Nghị.

Nhật ký dừng lại ở đó.

Bởi trên đường về, phụ thân đã gặp phải cuộc tập kích của người Ô Ly, từ đó vĩnh viễn không trở lại.

Bồ Châu nhìn trang giấy cuối cùng đã ố vàng, ngắm hàng chữ thân quen kia, trong đầu hiện lên cảnh tượng đầu năm nàng vừa đến kinh đô, gặp Khương Nghị ở ngoài cổng thành.

Nàng đã hiểu vì sao năm xưa, Khương Nghị có địa vị hiển hách nhưng lại không tính chuyện hôn nhân, cũng không thành thân.

Nàng cũng đã hiểu, vì sao ông ấy lại thương yêu Hoài Vệ đến thế.

Đêm ấy, khi ông và đứa trẻ lần đầu gặp mặt, tại sân dịch xá, ông từ từ ngồi xuống trước mặt cậu bé, chăm chú nhìn nó, đưa tay xoa nhẹ mái tóc, giọng nói dịu dàng vô hạn: “Không, ta rất thích con, Hoài Vệ.”

Bồ Châu suýt nữa thì bật dậy, vội đặt quyển nhật ký của phụ thân xuống, quỳ rạp bên mép rương gỗ, nôn nóng lục tìm những món đồ bên trong.

May thay, vật vẫn còn ở đó, và đã được nàng tìm thấy!

Cây sáo cửu cao, đúng như tên gọi, là một cây sáo được chế từ xương hạc. Tuy tiếng sáo có thể họa nên cảnh tùng reo trong gió, tuyết phủ hoàng hôn, nhưng suy cho cùng, cũng chỉ là một cây sáo làm từ xương mà thôi. Trong mắt người đời, nó chẳng có chút giá trị nào, vậy nên mới có thể yên ổn nằm lại nơi này sau ngần ấy năm, không bị bất kỳ ai lấy mất.

Bồ Châu nâng cây sáo mà năm xưa, Đại Trưởng công chúa đã phó thác cho phụ thân nàng, trao trả lại cho Khương Nghị. Nàng mượn chút ánh sáng le lói còn sót lại từ ngọn nến nơi gác xép, cẩn thận xoay vài vòng trong tay, để rồi bất chợt trông thấy phần đuôi sáo có một hàng chữ nhỏ được khắc bằng dao.

Nàng ghé sát vào ánh nến, cố gắng nhận rõ từng nét khắc: “Mùa xuân năm Tuyên Ninh hai mươi sáu, Nghị lang tặng cho Lăng muội.”

Khuê danh của Đại Trưởng công chúa là “Lăng”, năm Tuyên Ninh hai mươi sáu, hình như bà ấy mới chỉ mười lăm mười sáu tuổi.

Ngọn nến cháy cạn đến tận cùng, ánh lửa chập chờn nhảy múa một thoáng rồi phụt tắt, trước mắt vụt tối.

Đến đây thì Bồ Châu đã ngộ ra.

Cây sáo xương hạc này hẳn là tín vật định tình mà năm xưa Khương Nghị đã trao cho bà ấy, chỉ không rõ năm đó rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì.

Năm ấy, Đại Trưởng công chúa nhờ phụ thân gửi lại vật này cho Khương Nghị, tất nhiên là muốn khuyên ông sớm lấy người khác, đừng nên vì mình mà lỡ dở cả đời người.

Nhưng không ngờ vật đổi sao dời, qua tay người này đến người khác, cuối cùng món đồ ấy lại nằm ở một góc xó xỉnh, phải đến khi bị nàng vô tình lật ra, nó mới có được cơ hội trở lại với ánh sáng.

Bồ Châu nắm chặt cây sáo hạc trong tay, ngồi thẫn thờ giữa bóng đêm.

Một người là nữ tử mà cả hai kiếp nàng chưa từng gặp mặt.

Một người là nam nhân chỉ tình cờ gặp gỡ, sau đó chẳng còn liên quan.

Sinh ly tử biệt của người khác, thì có liên quan gì đến nàng?

Thế nhưng đôi mắt lại không thể khống chế được, dần dần nóng lên. Từ tận đáy lòng, thậm chí nàng còn thấy thầm ghen tị với Kim Hi, ngưỡng mộ sự thủy chung si tình, một đời chẳng phụ mà bà ấy nhận được từ người đàn ông kia. Dẫu cuối cùng vẫn phải chia ly, nhưng nàng tin rằng, đến khi ra đi, hẳn bà ấy cũng chẳng có gì để oán trách, để hối hận về đoạn tình cảm thời non trẻ này.

Cứ thế, nàng một mình đón giao thừa trong căn gác nhỏ tối om, phủ đầy bụi và tơ nhện ấy. Mãi đến khi trời sáng, ánh bình minh xuyên qua giếng trời chiếu rọi vào căn gác, xua tan bóng tối, nàng mới từ từ mở mắt, đặt bản thảo chép tay của phụ thân và cây sáo hạc vào chung một chỗ, cất giữ thật kỹ.

Vài ngày sau, nàng rời khỏi Tề Châu, lên đường quay trở lại kinh đô.

Sau đêm giao thừa ấy, nàng luôn cảm thấy bồn chồn bất an. Gần như mỗi ngày, nàng đều phải tới viếng mộ phần phụ mẫu, bởi dường như chỉ khi đứng nơi đó, nàng mới có thể tìm được chút bình yên trong tâm hồn.

Lúc này, đã bước sang năm Hiếu Xương thứ sáu.

Kiếp trước, bệnh dịch lây lan tận mấy châu, ảnh hưởng đến hàng trăm quận huyện, cuối cùng còn lan tới tận kinh đô, đảo lộn vận mệnh của vô số người. Nếu không có gì thay đổi, thì chẳng bao lâu nữa, tai họa ấy sẽ lại giáng xuống.

Nàng nhớ rất rõ, sau đại dịch, Thái y viện từng tấu lên triều đình rằng nơi có nhiều người chết nhất chính là Đồng Châu, về sau tra xét, phát hiện nơi ấy cũng chính là nơi dịch bệnh bùng phát đầu tiên.

Đồng Châu nằm về phía Bắc của Tề Châu, cách nhau khoảng mấy trăm dặm.

Về sau nghe nói, trước khi đại dịch xảy ra đã xuất hiện điềm báo đáng ngại. Năm trước vùng này lụt lớn, muỗi mòng sinh sôi, có một ngày, muỗi mòng kéo thành từng đám, che kín cả bầu trời, bay qua như đám mây đen phủ bóng. Không bao lâu sau, dân chúng bắt đầu phát bệnh, chỉ là lúc ấy không ai để tâm, càng không có biện pháp cứu chữa hiệu quả, đến khi bệnh nhân bắt đầu ho ra máu mà chết, thì đã muộn, nơi nghiêm trọng nhất xác chất thành đống, mười nhà thì chín nhà bỏ hoang.

Vài ngày sau, Bồ Châu rời khỏi Tề Châu, dự định tiếp tục lên đường đi về phía Tây.

Từ sáng sớm, Diệp Tiêu đã chuẩn bị xong xe ngựa, đứng đợi vương phi khởi hành.

Đã qua giờ hẹn mà vẫn chưa thấy vương phi xuất hiện. Diệp Tiêu sai người vào giục thì được biết vương phi đang đứng một mình trong phòng ở lầu trên, mãi vẫn chưa chịu ra ngoài. Hắn thấy không yên tâm, đích thân lên mời, vừa lên lầu đã thấy vương phi khoác sẵn áo choàng đi đường, nhưng không hiểu sao người lại lẻ loi đứng trước cửa sổ, nhìn dòng người qua lại tấp nập bên dưới lầu, dáng vẻ xuất thần.

Hắn chờ một lát, rồi nhẹ giọng gọi: “Vương phi, đến giờ lên đường rồi.”

Bồ Châu vẫn dõi mắt nhìn ra ngoài khung cửa.

Đời này, đã có quá nhiều chuyện thay đổi. Đây gần như là điều cuối cùng nàng nắm chắc được nhờ ký ức của kiếp trước.

Nếu mọi chuyện có thể diễn ra đúng như kiếp trước, Khương thị qua đời trong đại dịch, dựa theo tình hình khi Hoàng đế triệu kiến nàng hồi cuối năm, khả năng cực lớn ông ta sẽ nhân dịp này để ra tay. Như vậy, sự kiện tiếp theo sẽ là nước Khuyết buộc phải di dời về phía Tây. Dù Lý Huyền Độ không nghe lời khuyên của nàng, tận dụng cơ hội này để giết chết Hiếu Xương, thì chỉ cần có thể giữ mạng sống cho hắn, hắn vẫn có thể giống như kiếp trước, đông sơn tái khởi, bước lên đỉnh cao quyền lực.

Ngược lại, nếu như không có trận dịch này, Khương thị vẫn còn sống, triều đình này vẫn tiếp tục dậm chân tại chỗ, tựa lưỡi dao cùn cắt thịt, không biết ngày nào sẽ phát sinh biến cố. Huống hồ, nước Khuyết mới là biến số lớn hơn cả.

Nhìn tình trạng của Khuyết vương thì dù không phát sinh biến cố nào đi nữa, thời gian còn lại của ông cũng không nhiều. Một khi lão Khuyết vương qua đời, uy hiếp từ triều Lý vẫn còn đó, trong khi Lý Huyền Độ lại không đồng ý cưới Lý Đan Phương, nàng không dám chắc Lý Tự Đạo, kẻ luôn nuôi ý đồ gây chiến, sẽ không gây ra hành động gì vượt ngoài dự liệu.

Giả như nội bộ nước Khuyết rạn nứt, quyền lực rơi vào tay Lý Tự Đạo, nhỡ may y thực lòng muốn liên thủ với Đông Địch thì Lý Huyền Độ sẽ rơi vào bước đường cực kỳ khó khăn.

Vì thế tốt nhất hãy để mọi việc diễn ra như kiếp trước.

Nhưng mà…

Nàng nhìn dòng người ngược xuôi trên phố, đó đều là những con người phải bôn ba vì miếng cơm manh áo từ lúc tờ mờ sáng, không ai hay biết gì về tai họa sắp sửa ập xuống. Bất giác, nàng nhớ tới cảnh tượng hôm nào khi theo Khương thị trở về từ chùa An Quốc, dọc đường đã gặp được thôn dân của hai thôn Lý trang và Địch trang, dưới sự dẫn dắt của lão binh, họ đã mang thức ăn đến, đón đường dâng lên triều đình.

Kiếp trước, sau khi dịch bệnh lan rộng, hai thôn đó, cộng thêm vài thôn xóm lân cận, theo như Hộ bộ thống kê, ba người thì chết mất một người, nhà nào cũng có người nằm xuống.

Những lão binh đó đã có nửa đời chinh chiến vì triều đình, kết cục chờ họ không nên bi thảm đến vậy.

Nàng lại nhớ tới ngày trừ tịch, nhớ tới dải lụa xuân cài trên mái tóc mình để cầu may đầu năm, nhớ tới cây sáo hạc mà Trưởng công chúa Kim Hi đã nhờ phụ thân mang trả cho Khương Nghị từ nhiều năm trước, nhớ tới cái chết của phụ thân.

Cuối cùng, trước mắt Bồ Châu, cảnh tượng hồi đầu năm ngoái khi Lý Huyền Độ lần đầu hồi kinh, bà cháu đoàn viên dường như lại hiện lên, kế đến là bóng hình hắn quỳ trước linh cữu của Khương thị ở kiếp trước, đôi mắt chảy máu.

“Cha, cha nhớ về sớm đó ——”

Giọng nói non nớt của một bé gái vang lên.

Cánh cửa của một nhà dân ở bên kia đường mở ra, một người bán hàng rong trẻ tuổi gánh đôi quang gánh bước qua bậc cửa, sau lưng là một bé gái chừng năm sáu tuổi, trắng trẻo xinh xắn như ngọc, lon ton chạy theo, ôm lấy chân người cha, ngẩng đầu quyến luyến không rời.

Người hàng rong cúi đầu xoa đầu cô bé, người vợ trẻ cũng vừa từ trong nhà bước ra, mỉm cười bế con gái lên tay. Mẹ con đứng dưới bậc thềm, cùng dõi mắt tiễn chân người gánh hàng rong rời nhà.

Bồ Châu nhắm mắt lại, lát sau mở ra, ánh nhìn sáng rõ. Nàng xoay người dặn rằng cả đoàn sẽ ở lại đây thêm vài ngày, đặc biệt phái Diệp Tiêu dẫn theo một nhóm người, đi về phía Bắc, đến huyện Cao ở Đồng Châu, tìm bằng được vị lang trung thích ngao du bốn phương, tên là Ngô Chi Lâm.

Kiếp trước, lang trung này là người đóng vai trò mấu chốt trong việc dập tắt dịch bệnh, khi đó đã lan rộng tới tận kinh đô. Sau khi dịch được khống chế, triều đình từng muốn giữ y lại phong chức, nhưng y một mực từ chối, tiếp tục vân du khắp nơi.

Bồ Châu nhớ rõ khoảng thời gian này, vị lang trung ấy vẫn đang đi loanh quanh gần khu vực Đồng Châu.

So với kiếp trước thì chỉ còn mấy tháng nữa, dịch bệnh sẽ lên đến đỉnh điểm. Nếu lúc này có thể sớm tìm được vị lang trung ấy, ắt hẳn sẽ có ích rất nhiều.

Diệp Tiêu nghe nàng phân phó, tuy lấy làm thắc mắc nhưng cũng không hỏi nhiều, nghe lệnh xong thì lập tức dẫn người xuất phát.

Bấm trên máy tính để sang chương tiếp theo và bấm để quay lại chương trước


Đăng nhập để bình luận

Giới thiệu

Truyện Hoàng Dung, truyện dịch, truyện chữ... nơi bạn đọc những truyện chất lượng nhất. Đọc truyện là thỏa sức đam mê.

Links

Liên hệ quảng cáo

  • Email: hoangforever1@gmail.com
  • Phone:
  • Skype: #
back to top