Cách Khuyết đô khoảng trăm dặm về hướng Tây Bắc là một trọng trấn có tên gọi là Thanh Long Bảo. Nơi đây là con đường độc đạo từ phương Bắc tiến vào đất Khuyết, đồng thời cũng là cánh cổng trọng yếu ngăn kẻ địch phương Bắc đánh thẳng vào vương đô.
Lý Tự Đạo đã trấn giữ nơi này suốt bao năm, mục đích chính là biến Thanh Long Bảo thành một bức tường thành kiên cố không gì công phá nổi. Hôm nay vừa hay tin một vạn kỵ binh của Tả Đại tướng Đông Địch đột kích từ phương Bắc, y lập tức điều một quý tộc họ Hạ dẫn theo một nhánh quân khác xuất thành án ngữ một bên, còn bản thân thì thống lĩnh đại quân tới Thanh Long Bảo chặn đánh. Kỵ binh hai bên giáp mặt giữa bãi đất hoang, đại chiến sắp sửa bùng nổ.
Kỵ binh nước Địch hung hãn không sợ chết, ai nấy như sói đói khát máu, nhưng người Khuyết cũng gan dạ vô song, tuyệt không e ngại.
Song phương giao chiến trực diện, đao quang huyết ảnh, đang lúc kịch chiến thì lại có tin dữ truyền đến.
Nước Hi cũng phái năm nghìn quân, vòng qua Thanh Long Bảo, đánh thẳng tới Khuyết đô.
Nước Hi nằm ở phía Đông Bắc nước Khuyết, mặt phía Bắc núi cao rừng rậm, người Địch không thể băng núi tấn công, nhờ vậy trong suốt những năm tháng chiến tranh dai dẳng nhưng vẫn có thể bảo toàn, trở thành tiểu quốc duy nhất còn sót lại bên cạnh nước Khuyết, có thể nói sống còn đều nhờ cả vào nước Khuyết. Một khi nước Khuyết thất thủ, quân Địch có thể dễ dàng tiến thẳng qua đất Khuyết sau đó thôn tính lãnh thổ nước Hi, vì thế từ xưa đến nay, nước Hi và nước Khuyết vẫn thường kề vai sát cánh như môi với răng. Mấy chục năm trước, khi nước Khuyết phái binh giúp triều Lý chống lại nước Địch, nước Hi cũng từng xuất quân tiếp viện, cùng nhau chiến đấu.
Nói đâu xa, mấy ngày trước, nhân thọ nhật của lão Khuyết vương, người Hi còn phái sứ giả tới, dâng lễ mừng thọ, ai mà ngờ chúng lại phản bội, ngã về phía người Địch, hôm nay còn phối hợp với binh sĩ đông Địch, cắm đao nhọn vào người Khuyết từ bên hông.
Lý Tự Đạo nổi cơn thịnh nộ.
Hiện tại quân Địch đang điên cuồng tấn công, trận chiến vô cùng khốc liệt, y không thể rút quân, chuyển hướng nghênh chiến người Hi ở phía Đông Bắc. Cũng may, y đã để lại một cánh quân do Hạ tướng quân chỉ huy giữ thành, đành trông cậy vào việc cánh quân đó có thể cản được bước tiến của quân Hi.
Nhưng Hạ tướng quân không đề phòng cuộc tập kích bất ngờ của người Hi, phối hợp lúng túng, vừa giao chiến đã rơi vào thế bị động. Không chỉ vậy, ngay cả Hạ tướng quân cũng bị trọng thương, đại quân mất đi chủ soái, buộc phải rút lui, giờ đã lùi hơn mấy chục dặm.
Nếu còn rút nữa, trước mặt sẽ là cổng thành kinh đô nước Khuyết.
Tuy có địa thế tự nhiên làm cửa ải, nhưng nếu chỉ dựa vào tường thành và cố thủ đến cùng thì quá mức nguy hiểm.
Lý Tư Đạo mắt đỏ như máu, nghiến chặt răng, cuối cùng cũng hạ quyết tâm, đang định điều động nhân mã lui vào Thanh Long Bảo, chuyển từ đánh úp trực diện sang tử thủ, đồng thời phái một nhóm nhân mã cấp tốc quay về tiếp viện Khuyết đô, thì sứ giả lại một lần nữa phi ngựa như bay tới, mang theo tin tức thứ ba.
Tần vương Lý Huyền Độ đã kịp thời tới nơi, tiếp quản quyền chỉ huy đội quân cánh phải của Hạ tướng quân, ổn định lại thế trận, chặn đứng người Hi, giữ được bình an tạm thời cho Khuyết đô.
Lý Tư Đạo nhớ rõ mồn một, năm Lý Huyền Độ mười bốn tuổi từng theo đoàn tới Khuyết đô, đúng lúc ấy, hắn gặp phải một đợt cướp bóc bất ngờ của kỵ binh nước Địch. Khi đó, chỉ có vài trăm kỵ binh do một viên thiên hộ dẫn đầu, đi qua đất Khuyết thì tiện đường cướp phá, giết hơn chục người, đoạt đi vài nữ tử cùng của cải rồi biến đi như một cơn lốc. Đến khi Khuyết vương hay tin thì đội kỵ binh ấy đã vượt sang đất Địch, lo sợ nếu đuổi theo sẽ chạm phải đại quân mai phục, ông đành nuốt giận bỏ qua.
Khi ấy, Lý Huyền Độ đang cùng mấy chục kỵ binh tinh nhuệ do hắn tự mình tuyển chọn chơi đánh cầu trên lưng ngựa. Nghe được tin, hắn giận tím mặt, chẳng nói chẳng rằng, đánh một đường bóng rồi phóng ngựa quay lại, dẫn theo đội kỵ binh ấy đuổi theo suốt đêm. Đến sáng hôm sau, hắn mang theo mấy người phụ nữ bị bắt quay về.
Sau này theo lời kể của nhóm kỵ binh đi cùng, lúc hắn đuổi kịp thì quân địch chưa kịp bày trận, hắn một mình một ngựa xông thẳng vào giữa trận, thế như chẻ tre, lao thẳng tới tên thiên hộ, giết hắn ngay dưới vó ngựa. Đám còn lại sợ hãi, vứt bỏ những người phụ nữ vừa cướp được rồi tháo chạy tán loạn.
Mười sáu tuổi trở thành Bắc nha Ưng Dương vệ tướng quân, đây không phải vị trí mà hắn có thể ngồi vững nếu chỉ dựa vào thân phận hoàng tử.
Lý Tự Đạo rất tin tưởng người cháu này, nghe tin hắn đến tiếp quản đội quân cánh phải, rốt cuộc cũng thở phào nhẹ nhõm, tập trung tinh thần, toàn lực đối đầu với đại kình địch trước mắt.
Trời đã tối hẳn, thế công như thủy triều của kỵ binh người Địch rốt cuộc cũng ngừng lại. Lý Tự Đạo bắt lấy cơ hội nghỉ ngơi quý giá ấy để chỉnh đốn binh mã. Đến ngày hôm sau, y tiếp tục chỉ huy quân sĩ đẩy lui mấy lượt tiến công của địch, hai bên đều chịu tổn thất nặng nề, khắp nơi trên vùng đất hoang bên ngoài Thanh Long Bảo, xác người la liệt.
Lý Tự Đạo thấy mà lạnh sống lưng.
Hãn vương nước Địch tuổi tác đã cao, suốt thời gian tại vị không lập được chiến công gì nổi bật trước triều Lý hay với Tây Địch, người Địch lại tôn sùng kẻ mạnh nên uy tín cũng ngày một sa sút. Mấy năm gần đây, Thái tử và em trai hắn ta – Túc Sương vương – mới là những kẻ đấu đá tranh giành quyền lực.
Túc Sương vương từng phái sứ giả, bí mật đến thuyết phục y, hy vọng y có thể dẫn đầu người Khuyết quy phục, liên thủ chống lại triều Lý, trong khi Tả Đại tướng xuất chinh tập kích hôm nay, lại là thuộc hạ của Thái tử Đông Địch, đóng quân ở vùng lãnh địa cách nước Khuyết không xa, mấy năm nay vẫn thường phái từng toán quân nhỏ lẻ sang cướp bóc, tuy phiền nhưng không tạo thành uy hiếp gì ghê gớm.
Sau trận đại chiến do Khương thị phát động, chống lại nước Địch khi xưa, suốt mấy chục năm qua, đây là lần đầu tiên người Địch điều binh với quy mô lớn để nhắm vào nước Khuyết.
Chẳng lẽ đây là tín hiệu cho thấy Thái tử Đông Địch đã dẹp yên Túc Sương vương, nắm chắc quyền hành, từ đó lệnh cho Tả Đại tướng mang nước Khuyết ra làm vật hiến tế, hòng răn đe triều Lý?
Lý Tự Đạo vừa dốc sức chỉ huy các chiến binh liều chết đánh trả, vừa khổ sở chờ đợi tin tức mới từ cánh quân bên phải.
Đến hoàng hôn, không những thế công của người Địch không suy giảm, mà còn có thêm một cánh viện binh kéo đến. Dù quân số không nhiều, nhưng với binh sĩ nước Khuyết thì đó chẳng khác nào một đòn giáng vào sĩ khí vốn đã rệu rã.
Tiếng trống trận, tiếng hò hét rung trời vang lên từ phía đối diện. Một đội kỵ binh nước Địch khoảng nghìn người, kết thành thế trận hình cánh chim giăng ngang như sóng dữ giữa biển khơi, gào thét cuộn đến, như muốn dồn ép tàn quân nước Khuyết vốn đã bị lùa tới trước cửa Thanh Long Bảo vào tử lộ.
Lý Tự Đạo căng mắt nhìn chằm chằm về phía bên kia, hạ lệnh tức tốc bày trận nghênh chiến. Ngay lúc đó, trong đội kỵ binh cách đó trăm bước, có một thiên phu trưởng đầu đội mũ lông chim cao vút, từ giữa trận hình ló ra, giương cung bắn thẳng một mũi tên về phía Lý Tự Đạo.
Lúc Lý Tự Đạo phát giác thì đã quá muộn, mũi tên ấy đã bay sát đến chỉ trong chớp mắt, nhắm thẳng vào cổ họng y. Y cả kinh, vội nghiêng người né tránh, vừa tránh thoát khỏi mũi tên hiểm độc kia thì bả vai đã truyền đến cảm giác đau nhói. Cúi đầu nhìn xuống, y thấy mũi tên đã cắm xuyên bả vai, lòi cả mũi tên ra sau lưng.
Ngay sau đó, không để y kịp phản ứng, hai mũi tên liên tiếp khác lại bắn tới, nhắm trúng hai vị phó tướng bên cạnh y, một người trúng ngực, người còn lại bị bắn trúng ngay giữa mặt.
Mồ hôi lạnh túa đầy sau lưng Lý Tự Đạo, y quát lớn, hạ lệnh đề phòng ám tiễn. Nhóm thân binh xung quanh tức thì ứng đáp, vọt lên trước, nhanh chóng dùng khiên hợp thành lá chắn phòng hộ.
Đối diện là tràng cười đầy khinh miệt lẫn trong tiếng hoan hô của người Địch, theo sau đó là tiếng vó ngựa rầm rập của hàng ngàn kỵ binh phi đang nước đại, mặt đất như bị kình lôi nện trúng, khiến ai nấy không khỏi kinh hồn táng đảm.
Lý Tự Đạo nhận ra, vì chuyện xảy ra với y nên sĩ khí binh lính đang bị xói mòn từng chút một ngay trên trận địa. Y vung đao chém ngang cán tên nơi vai, vừa hạ lệnh cho cung thủ bắn tên đáp trả, vừa truyền quân lệnh, khẩn trương dàn trận ứng phó.
Bỗng đúng lúc ấy, một mũi tên lông vũ từ phía sau y vụt ra, mang theo thế mạnh ngàn cân, bay vút về phía trước, nhắm thẳng vào viên thiên phu trưởng đang ngồi cao trên lưng ngựa cách đó cả trăm bước – kẻ vừa ngẩng đầu cười lớn, hưởng thụ tiếng tung hô của thuộc hạ.
Gã vẫn đang ngửa cổ cười vang, tiếng cười còn chưa dứt, mũi tên ấy đã đến nơi, không một tiếng động xuyên thủng yết hầu, cắt đứt khí quản của gã.
Mũi tên cắm ngang yết hầu, cổ họng nghẹn cứng, gã đứng hình ngay trên lưng ngựa, thân người lắc lư vài nhịp rồi rồi nghiêng hẳn sang một bên, giữa những tiếng la hoảng của đám lính xung quanh, cứ thế đổ sầm xuống đất.
Sĩ khí quân Khuyết lập tức dâng cao, đáp lại bằng một tràng cười nhạo còn vang dội hơn ban nãy.
“Là Tần vương! Tần vương đến rồi!”
Lý Tự Đạo nghe thấy tiếng reo mừng từ phía sau, ngoảnh đầu nhìn lại, liền thấy Lý Huyền Độ tay giương cánh cung, phóng ngựa đến gần. Mũi tên vừa rồi do hắn bắn ra. Sau lưng hắn, một đội quân khác đang ồ ạt áp sát, chính là nhánh quân dự bị do Hạ tướng quân thống lĩnh.
Lý Tự Đạo mừng rỡ khôn xiết, thúc ngựa phi nhanh đến gần, hỏi han tình hình giao chiến với người Hi ở cánh phải. Lúc này y mới biết, Lý Huyền Độ đã bao vây khu vực này để tiến hành tiếp viện từ đêm qua, đồng thời cử một đội nhân mã nhân lúc trời tối, tấn công bất ngờ vào khu vực chuồng trại của người Hi, đánh một trận oanh tạc gây thanh thế lớn.
Mùa đông khắc nghiệt sắp đến, với người Hi có lối sống du mục mà nói, đàn gia súc như bò dê chẳng khác nào vàng bạc. Người Hi cho rằng người Khuyết có sự đề phòng, phái đại quân kéo tới trả đũa nên hoảng sợ, triệu hồi quân đội về tự vệ, nào ngờ giữa đường lại sa vào mai phục, bị quân Khuyết đánh cho tan tác không kịp trở tay. Nhờ vậy, chẳng những cánh quân bên phải được giải vây thành công, mà còn thu về một lượng lớn trâu bò dê cừu. Nguy cơ ở đó đã được giải trừ, Lý Huyền Độ để lại một phần binh mã trấn giữ, còn mình thì dẫn theo số quân còn lại tới tiếp viện Thanh Long Bảo.
Lý Tự Đạo sai người lan truyền tin mừng này ra toàn quân, cười phá lên, dõng dạc nói với đám tướng sĩ: “Sự dũng mãnh của điện hạ, năm đó binh sĩ nước Khuyết các ngươi đều đã tận mắt chứng kiến! Mưu lược của điện hạ, hôm nay đã cho các ngươi được mở rộng tầm mắt! Dàn trận! Đã đến lúc các ngươi thể hiện bản lĩnh, cho điện hạ thấy tài nghệ của mình rồi đấy!”
Tiếng trống trận dồn dập, tiếng hò reo rung trời, binh sĩ nước Khuyết lập tức bày trận, xông thẳng về phía đối phương. Hai bên lại một lần nữa lao vào hỗn chiến.
Lý Huyền Độ cưỡi ngựa xông lên, lao thẳng vào trận địa, vung đao, một nhát chém rụng nửa bờ vai của một gã võ sĩ người Địch đang giơ đao bổ nhào về phía hắn.
Gương mặt gã võ sĩ vặn vẹo vì đau đớn, ôm lấy cánh tay đứt rời, trước khi rơi xuống ngựa thì từ thân thể đã tuôn ra một làn máu nóng hừng hực đỏ lòm, bắn thẳng lên mặt Lý Huyền Độ, dính đầy đầu tóc và gương mặt hắn.
Hắn chỉ dùng tay áo lau mặt một cái, mở to đôi mắt, sắc mặt không đổi, tiếp tục xông lên, lao sâu vào khu vực trung tâm.
Trước mắt hắn đâu đâu cũng là máu, là tàn chi, là những cánh tay đứt lìa; bên tai vang lên vô số tiếng rên rỉ của những người bị thương chưa chết, có cả người Địch lẫn người Khuyết, cảnh tượng thảm khốc như thể rơi vào địa ngục trần gian.
Thế nhưng, ở đây, giữa chiến trường, nơi sinh tử giằng co từng tấc đất một, tất cả những điều đó đều đã trở thành chuyện thường ngày.
Lý Huyền Độ như lại lần nữa ngửi thấy mùi máu tanh đã từng bao trùm cung Trường An trong biến cố năm hắn mười sáu tuổi, thứ mùi tanh nồng mà đến giờ vẫn chưa phai nhạt nổi.
Hai mắt hắn đỏ như máu, người như hòa làm một với thanh đao sát phạt trong tay, chẳng màng nhìn đến bất cứ điều gì khác. Hắn nghiến răng, trong lòng trong mắt, chỉ còn lại một chữ: giết, giết, giết!
Trận chiến đẫm máu ấy kéo dài đến tận hoàng hôn. Trời dần âm u, mây đỏ dày đặc như muốn đổ mưa tuyết, đám kỵ binh người Địch còn lại không chống đỡ nổi, nhân lúc bóng tối buông xuống liền vội vã lui quân, tháo chạy trong hỗn loạn.
Trước thành Thanh Long Bảo, từng đợt hò reo vang dội báo tin thắng trận. Sau khi thu dọn chiến trường, đội quân cánh phải cũng mang theo vô số bò dê chiến lợi phẩm vừa đi vừa hát ca, hội quân cùng đại đội. Lý Tự Đạo sơ cứu vết thương trên vai một cách qua loa, sau đó hạ lệnh đóng trại tại chỗ, giết bò mổ dê, mở tiệc ban thưởng cho ba quân sau trận huyết chiến.
Từ trên xuống dưới, tướng sĩ nước Khuyết không ai là không tranh nhau nâng chén mời rượu Lý Huyền Độ.
Hắn uống không ít, trạng thái ngà ngà say khiến tầm mắt hắn cũng trở nên lờ mờ. Giữa lúc ấy, hắn thấy viên phó tướng từng đến tìm hắn báo tin hôm qua vội vã chạy đến, ghé sát tai Lý Tự Đạo thì thầm điều gì đó.
Sắc mặt Lý Tự Đạo chợt trầm xuống, quay sang liếc nhìn Lý Huyền Độ một cái thật nhanh, rồi lập tức nhảy lên lưng ngựa, phi thẳng về hướng đô thành nước Khuyết.
Lý Huyền Độ còn đang trầm ngâm thì một tướng quân quý tộc nước Khuyết đã say khướt bước đến, thân mật dâng rượu cho hắn, giọng lè nhè nói: “Hôm nay đều nhờ cả vào Tứ điện hạ, ngày nào Tứ điện hạ chịu cưới vương tôn nữ thì ngài sẽ chính thức trở thành người một nhà với Khuyết quốc ta. Khi ấy, chúng ta nguyện theo Tứ điện hạ chinh chiến, máu chảy đầu rơi cũng tuyệt không chối từ…”
Lý Huyền Độ mặt mày tối sầm, đẩy phắt viên tướng kia ra, sải bước gọi phó tướng kia tới, dẫn hắn ta ra khỏi doanh trại, chất vấn về chuyện vừa rồi.
Ban đầu phó tướng ấp úng không chịu nói. Lý Huyền Độ nheo mắt, từ từ rút thanh kiếm bên hông, vuốt nhẹ lưỡi kiếm, rồi bất ngờ đâm thẳng tới.
Phó tướng kinh hãi, vội lăn người tránh né, vừa thoát khỏi mũi kiếm thì đã thấy đôi mắt Lý Huyền Độ đỏ ngầu như say, thần sắc hung tợn, bước đi lảo đảo nhưng vẫn giơ kiếm định tiếp tục đâm tới. Quá sợ hãi, phó tướng không dám giấu giếm nữa, quỳ rạp xuống đất, cầu xin: “Điện hạ tha mạng! Khi nãy có tin khẩn truyền về, nói rằng mấy hôm trước Túc Sương vương nước Địch đã sát hại Thái tử, hiện đã được tôn làm Đông Địch Hãn vương. Tả Đại tướng không phục, mang binh làm phản nên mới tiến đánh Khuyết quốc ta, hòng cướp lấy địa bàn. Vừa rồi, Túc Sương vương phái mật sứ tới, mang theo thủ cấp cha con Tả Đại tướng, nói hai người đó chính là chủ mưu vụ ám sát Tần vương điện hạ mấy ngày trước. Hắn cố ý đưa đầu đến để tạ tội với quốc vương…”
Lý Huyền Độ nhìn về hướng Khuyết đô, tra kiếm vào bao, nhảy lên ngựa, quay đầu ngựa phi nước đại trở về Khuyết đô.
Tuy đã về khuya, nhưng trong gian mật thất của hoàng cung nước Khuyết, ánh đèn vẫn sáng rực như ban ngày.
Ngay trong đêm ấy, Túc Sương vương mới lên ngôi của Đông Địch đã phái một mật sứ là cựu quan người Hán từng đầu hàng sang cầu kiến. Hắn ta không chỉ mang đến thủ cấp vẫn còn đẫm máu của cha con Tả Đại tướng, mà còn trình kèm một danh sách lễ vật hậu hĩnh, dâng lên Khuyết vương để tạ tội, đồng thời đề xuất liên minh chống lại triều Lý, hứa rằng chỉ cần mình còn tại vị một ngày, thì tuyệt đối không đem binh xâm phạm nước Khuyết.
Mật sứ lui xuống, hai huynh đệ Lý Tự Nghiệp và Lý Tự Đạo lại lần nữa tranh cãi nảy lửa.
Lý Tự Đạo cho rằng nên quan sát thêm một thời gian, chưa cần phải từ chối ngay.
Lý Tự Nghiệp kiên quyết phản đối, cho rằng Túc Sương vương tỏ ra thiện chí chẳng qua là vì mới đăng cơ, đang cần lập uy, nên mới ra sức lôi kéo nước Khuyết, vốn là một nước phụ thuộc quan trọng của triều Lý về phía mình.
“Nhị đệ, chưa nói đến chuyện người Địch có giữ lời hay không, chỉ riêng việc nếu nước Khuyết ta ngả về phía chúng, đệ nói Tứ điện hạ sẽ phải làm sao? Sau này trở về triều Lý, chẳng phải sẽ càng khó đứng vững hơn sao?”
Lý Tự Đạo ngập ngừng: “Lẽ nào ta lại muốn như thế? Người Địch dù không đáng tin, thì Hoàng đế triều Lý đã tốt hơn là bao? Ta thật không hiểu, vì sao Huyền Độ lại cam chịu đến mức này!”
Lý Tự Nghiệp nói: “Phản hay không phản, đến khi ấy, ta tin Tứ điện hạ sẽ có quyết định riêng. Trước mắt, ta vẫn chủ trương sớm chuẩn bị cho việc dời về phía Tây. Những chuyện khác, đợi vượt qua kiếp nạn trước mắt rồi tính tiếp cũng chưa muộn.”
Ông ngừng lại giây lát.
“Người còn thì đất còn, mất người thì đất cũng chẳng giữ được! Huống hồ, năng lực của Tứ điện hạ, hôm nay trên dưới nước Khuyết đều đã tận mắt chứng kiến. Chỉ cần người một lòng với dân Khuyết chúng ta, ngày sau lo gì không khôi phục lại thế cục? Nếu thời thế bất lợi, lùi chính là tiến, tiến chẳng bằng lùi – đạo lý đơn giản ấy, cớ sao nhị đệ lại không chịu hiểu?”
Lý Tự Đạo nổi giận: “Đừng hòng ép ta phải không lui về phía Tây nửa bước! Sinh ra nơi này, thà chết cũng muốn chết tại đây! Các dũng sĩ dưới trướng ta, cũng sẽ không rút!”
Vết thương trên vai y vẫn không ngừng rỉ máu, nhưng y không buồn để tâm, hướng về phía Khuyết vương đang im lặng ngồi trên vương tọa, quỳ xuống dập đầu thật mạnh, giọng nghẹn ngào đầy bi phẫn: “Phụ vương! Bắt người Khuyết ta phải bỏ đi cơ nghiệp tốt đẹp xây dựng suốt mấy trăm năm, con không cam lòng, thực sự không cam lòng!”
Tiếng nói vừa dứt, cả gian mật thất lặng như tờ.
Lý Tự Nghiệp cũng lặng thinh không nói.
Ánh nến hắt lên khuôn mặt gầy gò, già nua của Khuyết vương.
Ông lặng lẽ ngồi trên vương tọa, hai mắt khép hờ, tựa như đã nhập định.
Bỗng nhiên lúc này, cánh cửa nội thất bị ai đó đẩy ra. Hai huynh đệ nhà họ Lý ngoảnh đầu nhìn lại thì thấy Lý Huyền Độ bước thẳng vào.
Y phục hắn bê bết máu, sắc mặt tái nhợt, đôi mắt đỏ hoe, sải bước đi thẳng tới trước mặt Khuyết vương, quỳ xuống, kính cẩn dập đầu, nói: “Người Khuyết vốn có thể an cư lạc nghiệp nhưng nay lại phải đối mặt với tình cảnh tiến thoái lưỡng nan, chỉ để cầu lấy một cơ hội sinh tồn, không những thế còn khiến ngoại tổ cùng các cữu cữu vì mỗi mình con mà phải cân nhắc trên nhiều phương diện, làm gì cũng bị người khác cản trở, chịu đủ mọi sự chèn ép, con lấy làm hổ thẹn vô cùng. Trước kia con coi người là ruột thịt thân thích, hôm nay cũng vậy, về sau cũng vậy, cả đời không thay đổi!”
“Ta, Lý Huyền Độ, xin thề với trời: chỉ cần còn một hơi thở, ta nhất định dốc toàn lực trợ giúp nước Khuyết, dù tan xương nát thịt cũng không hối tiếc. Nếu thật có một ngày, người Khuyết phải dời về Tây để tránh họa, ta sẽ đi cùng các người, một bước không rời. Còn nếu muốn lấy chiến tranh để cầu sinh, dù hiện giờ dưới trướng ta chỉ có vài tên binh sĩ ô hợp, nhưng chí ít bọn họ vẫn còn trung thành với ta, đến khi ấy, chỉ cần ta hạ lệnh, tất sẽ đến. Ta nguyện xung phong đi đầu, không oán không hối!”
Hắn ngừng một thoáng, đôi mắt tựa như nhuộm máu, chậm rãi quét nhìn về phía hai chiếc thủ cấp vẫn còn chảy máu đầm đìa đặt trước án của Khuyết vương, rồi lại cất giọng chậm rãi: “Nhưng có một lời, dẫu là mạo phạm với bậc trưởng bối, hôm nay ta cũng buộc phải nói rõ ràng. Nếu nước Khuyết có ý quy thuận Đông Địch, thì kể từ ngày hành động đó xảy ra, dù bất hiếu ta cũng sẽ tự vạch ra giới tuyến rõ ràng, từ chối nghe lệnh. Trên người ta tuy có dòng máu người Khuyết, nhưng chung quy vẫn mang họ Lý. Ngày nào Đông Địch còn nuôi dã tâm nhòm ngó Trung Nguyên, thì ngày ấy, chúng vẫn là kẻ thù của ta. Suốt đời này, thề không đội trời chung!”
Tuy giọng nói không lớn, nhưng từng câu từng chữ đều dứt khoát, chắc như đinh đóng cột.
Sắc mặt Lý Tự Đạo đỏ bừng, nhìn Lý Huyền Độ, như muốn nói lại thôi.
Lý Tự Nghiệp vội bước tới hòa giải, định đỡ hắn dậy: “Tứ điện hạ chớ hiểu lầm. Ta tuyệt không đồng tình với việc đó. Tính tình Nhị cữu con là thế đó, nhất thời xúc động thôi, cũng không phải cố ý khiến con phải khó xử. Huống hồ phụ vương sao có thể đồng ý được? Con cứ yên tâm đi!”
Lý Huyền Độ đứng dậy quay sang Lý Tự Nghiệp, quỳ xuống bái lạy ông.
Lý Tự Nghiệp giật mình, cúi xuống muốn đỡ hắn dậy: “Tứ điện hạ, việc này là sao?”
Lý Huyền Độ không đứng lên, vẫn giữ nguyên tư thế quỳ, nói: “Chuyện cữu phụ nói với ta mấy hôm trước, ta chưa kịp sớm trả lời, để người chờ đợi lâu như vậy là lỗi của ta. Tuy ta và biểu muội chưa chính thức đính hôn, nhưng ta vẫn hiểu được rằng, hai bên đã coi như lập thành hôn ước. Nếu ta vẫn là Huyền Độ của ngày trước, tất nhiên sẽ cưới biểu muội. Nhưng nay thì không thể. Ta là kẻ không có tương lai, ngay cả tính mạng cũng khó giữ. Cầu xin cữu phụ thu lại ý tốt, sớm chọn một người xứng đáng cho biểu muội, xin đừng để nàng phải vì ta mà lỡ dở thêm nữa. Huyền Độ không dám nhận ân tình này.”
Lý Tự Nghiệp không ngờ hắn sẽ mở miệng từ hôn, sắc mặt thoáng ảm đạm, do dự giây lát lại nói: “Điện hạ, Đàn Phương đã đợi con đến hôm nay, hẳn cũng sẽ không sợ hãi những gì ở phía trước…”
Lý Huyền Độ đáp: “Biểu muội đối với ta tình thâm nghĩa trọng, vì ta mà lỡ làng đến nay, ta cảm kích vô cùng, lại càng thấy áy náy. Một kẻ bất tài như ta, tuy sẽ dốc hết sức mình để gánh vác trách nhiệm với nước Khuyết, nhưng tuyệt sẽ để nước Khuyết gặp thêm tai họa chỉ vì bản thân ta. Đã chẳng thể báo đáp, thì cũng không nên tiếp tục làm trễ nải cả đời nàng. Xin cữu phụ hãy hiểu cho!”
Nói rồi, hắn quay sang vị Khuyết vương vẫn im lặng từ đầu đến giờ, lại một lần nữa cung kính dập đầu, sau đó mới đứng dậy, xoay người rời khỏi điện.
Gió đêm buốt giá thổi tạt vào mặt, trận tuyết dày đặc như bông gòn bị xé nát, từ trên đỉnh đầu tối đen như mực rơi xuống tán loạn.
Hắn sải bước đi về phía viện tử nơi mình ở tạm, từng bông tuyết không ngừng lướt qua mặt mày, da thịt lạnh buốt, nhưng trong ngực hắn lại như có đốm lửa thiêu đốt, hai bên thái dương co giật liên hồi, đau đầu như muốn nứt toác ra.
Rốt cuộc hắn là ai? Trong mắt người khác, hắn nên là ai?
Trong mắt phụ hoàng, hắn là đứa con bất hiếu khiến người đau lòng và thất vọng.
Trong mắt Hoàng đế, hắn là kẻ lòng dạ khó lường, mưu đồ soán vị.
Trong mắt mẫu tộc, hắn là một đồng minh trời sinh. Họ đặt hy vọng vào hắn, và đương nhiên, đó cũng là trách nhiệm của hắn, thứ trách nhiệm mà ngay từ đầu, hắn chưa từng có ý định thoái thác.
Còn trong mắt nàng…
Trong đầu Lý Huyền Độ thoáng hiện lên cảnh tượng hôm ấy. Nàng và Lý Đàn Phương trao đổi với nhau, như đang bàn một cuộc mua bán.
Thật kỳ lạ, hắn không hề oán trách lấy nửa lời đối với người biểu muội đã âm thầm sắp đặt tương lai cho hắn sau lưng hắn. Khoảnh khắc ấy, lòng hắn cũng hề dấy lên bất kỳ gợn sóng nào.
Tất cả là lẽ đương nhiên. Hắn có thể hiểu được sự kỳ vọng lẫn nỗi khổ tâm của biểu muội khi phải làm chuyện ấy.
Nhưng khi nghĩ đến nàng…
Khi ấy sắc mặt nàng bình tĩnh đến lạ, dửng dưng không chút dao động. Cứ như hắn không phải là một con người, mà chỉ là một thứ công cụ trong tay nàng.
Cho dù đã sớm hiểu rõ điều này, cho dù đêm trước chính hắn cũng vừa từ chối sự chủ động từ nàng, nhưng khoảnh khắc một lần nữa thấy rõ thái độ của nàng dành cho mình, hắn vẫn không thể khống chế nổi, tim như khựng lại, còn máu huyết cũng bỗng nhiên lạnh ngắt.
Nàng chính là kiểu người như thế. Từ những ngày đầu hắn quen biết nàng, nàng chưa từng giấu giếm dã tâm, tư tưởng hay khát vọng của bản thân.
Cứ như nàng sống chỉ để hướng đến mục tiêu ấy.
Dù là trong quãng thời gian săn thu, khi tình ý giữa đôi bên mặn nồng quyến luyến nhất, tận sâu thẳm trong tim hắn, nào phải chưa từng dấy lên sự nghi ngờ? Nhưng hắn vẫn mặc sức đón nhận sự dịu dàng mà nàng dành cho mình, thậm chí còn tận hưởng điều đó. Đến khi sự thật phơi bày, hắn lấy tư cách gì để trách cứ nàng đây?
Chẳng qua là chính hắn đã tự lừa dối chính mình, dùng kỳ vọng để vẽ nên một hình bóng tưởng tượng, rồi bắt nàng phải trở thành người như thế.
Giữa đêm đông giá buốt, tuyết rơi rợp trời, Lý Huyền Độ bước đi giữa nền tuyết lạnh lẽo, nhưng máu trong người lại sôi lên sùng sục, dưới lớp da như có ngàn vạn cây ngân châm. Song, hắn đã không còn là người thiếu niên chạy chân trần trong tuyết để trút giận. Hắn sợ một khắc tiếp theo, mạch máu của hắn sẽ nổ tung.
Từ hai hôm trước, khi vừa ngoài thành trở về, Bồ Châu đã nhận được tin hắn ra tiền tuyến giao chiến với quân Đông Địch. Nàng chờ suốt một ngày một đêm, mãi đến hôm nay, cuối cùng cũng nghe được tin kỵ binh người Địch đã thua trận, vậy mà vẫn không thấy hắn quay về. Đã trễ thế này rồi, ngoài trời đang đổ mưa tuyết, tâm trạng vốn tĩnh tại như nước, nhưng vẫn bị cảm giác không yên tâm nho nhỏ đánh gục. Lưỡng lự mất nửa ngày trời, nàng khoác thêm chiếc áo choàng lông trắng, đang định ra ngoài tìm Ngô thị hỏi cho rõ tình hình, vừa mở cửa đã bất ngờ thấy Lý Huyền Độ đứng yên ở đó.
Tuyết phủ kín đầu và vai hắn, sắc mặt cũng trắng bệch như tuyết, chỉ có đôi mắt là đỏ rực. Hắn nhìn nàng chòng chọc, cả người từ đầu đến chân toát ra một luồng khí lạnh quái dị, chẳng rõ đã đứng đó bao lâu.
Trông cứ như… một hồn ma, lặng lẽ đứng bên ngoài ngưỡng cửa của nàng.
Nàng giật mình thót tim, cố trấn tĩnh lại, chần chừ một thoáng rồi điềm đạm hỏi: “Chàng sao vậy? Vào đi.”
Hắn không đáp, cũng không nhúc nhích, chỉ nhìn nàng chằm chặp bằng đôi mắt đỏ lựng ấy.
Bồ Châu càng thêm bất an, quay sang nhìn Lạc Bảo bên cạnh. Hắn ta cũng cúi đầu, không nói một lời.
Trông hắn rất khác thường, dường như đã phát bệnh.
Bồ Châu phân vân một lúc, rồi vươn tay ra thử chạm vào trán hắn, vừa chạm đã cảm thấy nóng hầm hập.
Hắn phát sốt thật rồi!
Nàng vừa định rút tay về, bảo Lạc Bảo đi mời đại phu thì bất chợt cảm thấy cổ tay mình bị siết chặt, hắn đã nắm lấy tay nàng.
Hắn bước thẳng vào nhà, bế nàng lên khỏi mặt đất, sải bước vào trong phòng trong, rồi thẳng tay đặt nàng lên giường.
Bồ Châu chống tay ngồi dậy, vừa quay đầu lại thì thấy hắn đang nhìn nàng bằng ánh mắt thâm trầm khó dò, tay đã cởi thắt lưng và áo choàng, từng lớp từng lớp được gỡ bỏ, tiện tay vứt đi, không có lấy một lời dạo đầu, hắn nhào tới, đè chặt nàng xuống giường.
Mọi chuyện xảy ra quá đỗi bất ngờ.
Kể từ lúc săn thu, đây là lần đầu tiên hắn lại làm chuyện ấy với nàng.
Ban đầu, nàng có chút hoảng loạn. Người đàn ông trước mặt nàng lúc này, là một dáng vẻ mà trước đây nàng chưa từng thấy.
Nàng không biết chuyện gì đã xảy ra với hắn. Đêm qua còn cự tuyệt nàng, vì sao đêm nay vừa trở về lại quay ngoắt thái độ, thậm chí cưỡng ép nàng như vậy.
Khi thân thể hắn áp xuống, nàng ngửi thấy mùi máu tanh nồng nực trên người hắn, là thứ mùi hương đầy tính xâm lược khiến nàng choáng váng, chỉ chốc lát sau đã chẳng còn sức để giãy giụa.
Cánh cửa viện lúc nãy vẫn còn hé mở, bị gió đêm thổi đánh lạch cạch vào khung cửa. Trong đêm tuyết mịt mùng, loáng thoáng vang lên những tiếng thở dốc của đàn ông, xen lẫn với tiếng nức nở yêu kiều của nữ tử.
Bên ngoài, Lạc Bảo đóng kín cửa lại, đứng bất động mắt nhìn mũi, mũi nhìn tim, kiên nhẫn đợi kết thúc.
Truyện Hoàng Dung, truyện dịch, truyện chữ... nơi bạn đọc những truyện chất lượng nhất. Đọc truyện là thỏa sức đam mê.

Đăng nhập để bình luận