Bồ Châu thấy hắn bỏ đi trong lúc tức tối thì cũng không yên tâm, bèn lặng lẽ theo ra ngoài, trốn sau cánh cửa dõi mắt nhìn trộm.
Hắn cũng không thật sự bỏ đi xa, chỉ quanh quẩn trong viện, đi đi lại lại không ngừng, dáng vẻ bức bối khó nhịn.
Hỏi chuyện cũ của hắn vốn xuất phát từ sự quan tâm, vậy mà hắn lại trở mặt, mở miệng nói toàn những lời cay nghiệt, từng câu từng chữ như muốn đâm thẳng vào tim người ta.
Thật đúng là vô lý hết sức!
Ban đầu Bồ Châu cũng thấy tức, nhưng trông thấy bộ dạng ấy của hắn, lại nhớ đến những điều Lạc Bảo vừa mới kể.
Kể ra cũng lạ, khoảng thời gian sau năm tám tuổi, về lý thì nàng cũng từng trải qua đoạn đời khốn khó giống như hắn, mỗi người đều có nỗi đau riêng. Thế mà giờ nhớ lại, thứ khắc sâu trong lòng nàng lại là những khoảnh khắc ấm áp khi A Cúc chăm sóc bảo vệ nàng. So với những khổ cực vì phải vật lộn tìm cách sinh tồn, những ký ức ấm lòng đó dường như còn rõ ràng hơn nhiều. Về phần hắn, cũng có thể vì lời Lạc Bảo nói quá cảm động, nên không hiểu sao, khi nghĩ đến chuyện xảy ra với hắn vào năm mười sáu tuổi, nàng luôn cảm thấy hắn thật đáng thương, thậm chí, dường như hắn còn đáng thương hơn cả nàng.
Lại nghĩ đến chuyện hắn mang chứng bệnh thế kia, vậy mà khi nàng sợ lạnh, muốn đặt lò sưởi trong phòng, hắn vẫn nhịn không phản đối, tính ra cũng phải chịu ấm ức vì nàng rồi. Sau này hai người cãi nhau, hắn cũng chỉ lẳng lặng bỏ lại nàng, một mình ra ngoài ngủ.
Hơn nữa, nghĩ đến đêm gặp thích khách, lúc hai người ngồi bên đống lửa, hắn đã nói ra mấy lời khiến lòng nàng lẫn lộn ngổn ngang, tuy sau này nghĩ kỹ lại, nàng cũng không dám tin hắn có thể làm được như những gì đã hứa, nhưng chí ít, đó cũng là tiếng lòng của hắn vào đúng thời điểm đó.
Dù vì lý do gì đi nữa, thì ít nhất, hắn cũng từng hứa sẽ cố gắng bảo vệ nàng cả đời, mặc cho trước kia, nàng từng lừa hắn không ít lần.
Nghĩ đến đây, cơn giận trong lòng cũng tan đi quá nửa.
Thôi vậy, bị hắn mắng một câu thôi mà, cũng có phải lần đầu đâu. Không thèm chấp nhặt với hắn làm gì, ai bảo người ta trời sinh đã cao quý.
Phượng hoàng rụng lông vẫn là phượng hoàng, những kẻ nói nó không bằng gà, chỉ có thể là đám gà đang chạy bộ dưới đất mà thôi.
Nghĩ thì nghĩ vậy, nhưng nàng cũng không dám đi chọc một kẻ đang say mèm như hắn.
Thế là trốn sau cánh cửa, lén lút ngó nghiêng.
Hắn đi lòng vòng trong sân một lúc, đưa tay day trán, cuối cùng loạng choạng quay về. Nàng vội trốn vào trong buồng, dựng tai lắng nghe động tĩnh.
Hình như là Lạc Bảo đỡ hắn vào, trải lại chăn đệm ở gian ngoài cho hắn. Vừa đặt lưng xuống, hắn đã ngủ mê mệt luôn ở đó.
Đêm ấy, Bồ Châu không tới gần hắn thêm lần nào nữa. Sáng hôm sau, trời còn chưa sáng rõ, nàng đã nghe thấy bên ngoài có tiếng động, dường như hắn đã tỉnh rồi.
Muốn thay y phục thì hắn phải vào trong.
Ban đầu Bồ Châu giả vờ ngủ, chờ một lúc lâu vẫn không nghe thấy tiến triển gì mới, trong lòng thắc mắc, liền rón rén xuống giường, áp sát tấm bình phong ngăn cách giữa nội thất và gian ngoài, vén hờ một góc màn nhìn ra.
Hắn đang ngồi xếp bằng, quay mặt về phía cửa sổ hướng Đông, nơi ánh sáng ban mai đang dần ló dạng, bóng lưng bất động, tinh thần chán nản, như đang ngẩn người. Qua một hồi, ngoài hành lang vọng đến tiếng bước chân qua lại của đám tỳ nữ vừa mới dậy, hắn mới nghiêng mình, đứng dậy.
Bồ Châu hốt hoảng chạy về giường, nằm im giả vờ như vừa tỉnh ngủ. Đợi hắn bước vào, nàng mới ngồi dậy, vươn vai một cái, xuống giường khoác áo, chủ động nói: “Điện hạ tỉnh rồi à? Để ta giúp chàng thay y phục.”
Lý Huyền Độ mím môi, sắc mặt hơi tái, gương mặt lộ vẻ uể oải sau cơn say, nhìn nàng một cái, ngập ngừng giây lát, rồi thấp giọng nói: “Gọi Lạc Bảo vào đi.”
Quả nhiên, vẫn không để nàng tới gần.
Bồ Châu thầm bĩu môi, rút tay về, nghe theo lời hắn, đi ra ngoài gọi Lạc Bảo vào, ánh mắt vô thức lướt qua chăn đệm trải dưới đất.
Lạc Bảo nhanh nhẹn, thu dọn gọn ghẽ. Đợi xong xuôi, Bồ Châu mới mở cửa, gọi tỳ nữ mang nước tới rửa mặt súc miệng.
Hôm nay chính là ngày mừng thọ của lão Khuyết vương. Đến khi vợ chồng Tần vương cùng nhau xuất hiện trước mặt mọi người, Lý Huyền Độ đã khôi phục phong thái thường ngày, tinh thần phơi phới, chuyện trò vui vẻ cùng chư vị khách khứa, tâm trạng có vẻ rất tốt.
Năm nay vốn không phải đại thọ tròn tuổi của lão Khuyết vương, cộng thêm vết thương cũ tái phát nên chính sự trong nước phần lớn ông đều đã giao cả cho trưởng tử là Lý Tự Nghiệp xử lý. Ngoại trừ những việc trọng yếu cần định đoạt, lão Khuyết vương hầu như không còn tiếp khách bên ngoài. Tiệc mừng thọ lần này cũng vậy, không được tổ chức rầm rộ, chỉ bày tiệc tại vương cung, chiêu đãi thân hữu cùng giới quý tộc và quan lại nước Khuyết. Cánh đàn ông thì tụ họp ở sảnh tiệc uống rượu, trong khi nhóm nữ quyến quý tộc trong vương thất thì quây quần mở tiệc riêng tại đình Khánh Xuân gần đó. Tiệc đang diễn ra, bỗng nghe một trận hò reo vang dội từ phía sảnh tiệc truyền lại. Ngô thị liền sai một bà tử sang xem xem có chuyện gì náo nhiệt. Bà tử quay về, bắt chước kể lại một phen, Ngô thị nghe xong bật cười, nói: “Bên kia đang chơi ném thẻ làm trò tiêu khiển. Tứ điện hạ mười thẻ ném trúng cả mười, hết sạch ống thẻ, bắt cả sảnh tiệc cùng phạt ba chén!”
Mọi người đều vỗ tay cười vang, tấm tắc ngợi khen tài ném thẻ siêu phàm của Lý Huyền Độ.
Một phụ nhân lớn tuổi trong tộc cũng mỉm cười, xen vào: “Ta còn nhớ mười năm trước, Tứ điện hạ cũng từng đến đây chúc thọ cho vương gia, tình cảnh khi ấy giống hệt như hôm nay. Lúc đó Tứ điện hạ mới mười bốn tuổi, đầu búi kim quan, mình khoác y phục màu tía, cưỡi một con ngựa ô pha trắng hoa ngọc. Dung mạo thiếu niên khi ấy là lần đầu tiên ta được thấy một người tuấn mỹ đến vậy. Chẳng những thế, từ trò bắn nhạn, ném thẻ đến bắn cung, dù tuổi còn nhỏ, nhưng ngài luôn đoạt được vị trí dẫn đầu. Ta thầm nghĩ, không biết cô nương nhà nào có phúc, mai sau có thể lọt vào mắt xanh của Tứ điện hạ. Nay ta được thấy vương phi, coi như đã sáng tỏ nghi hoặc trong lòng. Quả nhiên, đúng là trời tác hợp, đất se duyên, xứng đôi vừa lứa!”
Những người còn lại cũng nhìn sang Bồ Châu, đua nhau khen ngợi.
Biết mình là khách, lại đến từ triều Lý, Bồ Châu thừa hiểu mấy lời này của nhóm quý phụ nước Khuyết chẳng qua chỉ là phép xã giao cho có lệ mà thôi. Lúc họ nhắc đến Lý Huyền Độ, gần như tất cả đều vô thức liếc mắt về phía Lý Đàn Phương. Những biểu cảm nhỏ nhặt như thế, nàng đều thu cả vào mắt.
Hiển nhiên trong mắt người Khuyết, bao năm qua, họ vẫn luôn mặc định rằng Lý Đàn Phương sẽ được gả cho Lý Huyền Độ.
Nàng mỉm cười nhã nhặn, khéo léo từ chối những lời khen ngợi quá đà dành cho mình.
Ngô thị cũng không tiếc lời tán tụng, nâng nàng lên tận mây xanh, rồi lại quay sang nhìn Lý Đàn Phương đang ngồi cạnh mình, cười nói: “Không thể để cánh đàn ông vui thú một mình được. Chi bằng chúng ta cũng cùng chơi ném thẻ cho vui. Ai ném trượt thì tự phạt vài chén, còn ai có thể ném trúng toàn bộ như Tần vương thì cả bàn cùng uống với người đó!”
Mọi người đều hô hào tán thành.
Đàn ông nước Khuyết vốn nổi tiếng dũng mãnh thiện chiến, phụ nữ tuy không đến mức cầm đao ra trận, nhưng những trò như ném thẻ trong tiệc rượu cũng đã quá nhẵn mặt từ lâu. Nhóm người hầu nhanh chóng bày chiếc bình hứng thẻ ra giữa sân, mọi người đứng dậy theo thứ tự chỗ ngồi, lần lượt tham gia trò chơi.
Trong các cung yến ở kinh đô Trường An, trò ném thẻ cũng là tiết mục không thể thiếu. Về khoản ăn uống chơi bời, không món nào là Bồ Châu không thông thạo. Thế nhưng hôm nay, có thể là vì ban đầu không nỡ từ chối lời mời rượu đầy nhiệt thành rồi lỡ uống mấy chén, người đã ngà ngà say, hoặc cũng có thể là do tâm trạng nên nàng chẳng còn chút tính hiếu thắng nào, cảm giác phóng thẻ cũng không tốt, mười thẻ chỉ trúng tám thẻ. Vốn dĩ có thể trúng đến chín, nhưng một thẻ sau khi trúng bình lại bật ra ngoài.
Tám thẻ tuy không thể nói là xuất sắc, nhưng cũng không đến mức quá tệ. Cả sân vỗ tay tán thưởng, còn nàng tự phạt mình hai chén.
Ngô thị vội bước tới ngăn lại, bảo nàng là khách quý hôm nay, theo lệ được miễn phạt.
Bồ Châu mỉm cười, vẫn sai người rót rượu, dứt khoát uống cạn hai chén đầy, giữa tràng pháo tay rộn ràng, thong thả quay về chỗ ngồi.
Sau khi vài quý phụ khác ném thẻ xong, đến lượt Lý Đàn Phương.
Cả sân nín thở chờ đợi. Nàng bắt đầu ném thẻ dưới ánh mắt chăm chú của mọi người, mười mũi trúng bảy. Ném xong, nàng ngẩng lên, phát hiện mọi người đều dõi mắt nhìn mình, vẻ mặt có phần kinh ngạc, liền mỉm cười, khẽ lắc đầu, buông lời tự giễu: “Lâu ngày không chơi, vẫn chưa quen tay, trúng được bảy thẻ đã là tốt lắm rồi.” Vừa nói vừa tự phạt ba chén.
Mọi người nghe nàng giải thích như vậy thì cũng yên lòng, tiếp tục trò chơi.
Bồ Châu liếc thấy sau khi Lý Đàn Phương ngồi lại, Ngô thị ghé sát miệng nói nhỏ bên tai nàng ấy điều gì đó, vẻ mặt có chút khó hiểu. Nàng ấy mỉm cười, vẩy nhẹ bàn tay phải vừa ném thẻ khi nãy, đáp lại một câu. Vì xung quanh tiếng cười vang lên không ngớt nên Bồ Châu không thể nghe rõ, song từ biểu cảm của Lý Đàn Phương, nàng vẫn có thể đoán được, hẳn là đang lặp lại lời giải thích vừa rồi.
Bồ Châu vừa nhìn đã nhận ra ngay.
Chắc chắn Lý Đàn Phương là người rất thành thạo trò ném thẻ. Ngô thị yêu quý cháu gái, muốn giúp nàng nổi bật, nên mới cố ý sắp đặt trò chơi này. Vậy mà nàng lại chỉ trúng bảy thẻ, khiến Ngô thị sinh nghi.
Nàng nói là vì chưa quen tay, nhưng trực giác mách bảo Bồ Châu nàng, Lý Đàn Phương cố ý thua nàng, cố tình ném ít hơn một thẻ, để nàng không bị mất mặt trước các quý phụ nước Khuyết.
Một Lý Đàn Phương vừa rộng lượng vừa tinh tế khiến Bồ Châu sực nhớ đến câu Lý Huyền Độ từng buột miệng thốt ra: đến xách giày cho Đàn Phương, nàng cũng không xứng. Cảm giác tự ti trong lòng nàng, càng lúc càng nặng nề.
Tiếng cười rôm rả vang lên bên tai, các vị phu nhân nối nhau tới mời rượu, nàng mỉm cười, ai đến cũng không từ chối. Tửu lượng nàng vốn không cao, lại thêm rượu vào lúc đang sầu khổ thì sao mà chịu cho nổi. Yến tiệc chưa kết thúc, đầu nàng đã choáng váng quay cuồng, chỉ sợ thất lễ nên cố cắn răng chống đỡ, gắng gượng cho đến khi tiệc tàn. Bên cạnh không biết bao người đã ngả nghiêng vì men say, lúc này nàng mới đứng dậy từ biệt Ngô thị, gọi Vương mụ và tỳ nữ dìu về nghỉ.
Vừa bước vào phòng, nàng đã thấy tức ngực khó chịu, vội lao đến bên chậu đồng, cúi người nôn ra, tất cả những gì ăn uống trong đêm đều tuôn ra sạch sẽ, cuối cùng đến cả nước mật lẫn nước mắt cũng tuôn trào.
Nôn xong, đầu nàng ong ong, hai bên thái dương như bị co giật, cả người bồng bềnh khó tả. Nàng nhận chén nước ấm tỳ nữ đưa tới để súc miệng, lau mặt lau tay, chưa kịp uống canh giải rượu đã đổ vật xuống giường, mê man thiếp đi.
Trong cung có yến tiệc linh đình, Khuyết vương nhận được lễ mừng thọ do Lý Huyền Độ mang tới thay Thái hoàng Thái hậu Khương thị, trong lòng vô cùng phấn khởi. Nhớ lại năm xưa nước Khuyết và triều Lý kết minh, chung lưng đấu cật, được ban quốc tính họ Lý, hào khí bừng bừng nên uống không ít rượu. Đến khi hội tan, ông đã say khướt, được Lý Huyền Độ và Lý Tự Nghiệp dìu vào nghỉ ngơi.
Sau khi sắp xếp ổn thỏa cho Khuyết vương, Lý Tự Nghiệp gọi Lý Huyền Độ đi theo, đưa hắn vào một gian nội thất trong cung, cho lui tất cả người hầu, chỉ để tâm phúc canh gác bên ngoài, lúc này mới mỉm cười hỏi: “Thế nào? Đêm nay có vui không?”
Lý Huyền Độ biết ông có chuyện muốn nói, mà bản thân hắn cũng lờ mờ đoán được nguyên do. Trong ký ức của hắn, ngoại tổ phụ là một ông lão có tiếng cười hệt như chuông đồng, vậy mà hôm qua, khi gặp lại sau tám năm xa cách, người đã bệnh tật quấn thân, bước vào xế chiều, cõi lòng không khỏi nghẹn đắng. Lại nhớ tới Hoàng tổ mẫu trong cung Bồng Lai, tóc đã bạc trắng, lòng hắn càng thêm xót xa. Hắn nói: “Ngoại tổ và cữu phụ đã bàn bạc xong cả rồi sao? Con nguyện lấy mạng mình đổi lấy thọ mệnh cho tổ mẫu, nhưng đời người sao tránh khỏi sinh lão bệnh tử? Hoàng đế bức ép từng bước, e là chẳng thể chần chừ được nữa.”
Năm ấy sau vụ án Lương Thái tử, Lý Huyền Độ bị giam giữ, liên lụy đến nước Khuyết. Nước Khuyết bị xem là đồng đảng, hứng chịu nhiều công kích, nếu không có Khương thị lên tiếng, cục diện sau đó sẽ khó mà đoán trước.
Hai năm sau, tuy Lý Huyền Độ đã được đại xá, nhưng đối với nước Khuyết mà nói, việc Minh Tông – người từng có quan hệ mật thiết với nước Khuyết – băng hà, thanh kiếm sắc bén treo lơ lửng trên đầu họ vẫn chưa từng được gỡ xuống.
Đặc biệt là trong hai năm gần đây, những phong tình báo do mật thám đưa về khiến Khuyết vương càng thêm lo lắng. Lý Huyền Độ biết, ngoại tổ của hắn dần nảy sinh ý định dời nước, chia tộc nhân thành từng đợt, âm thầm dời về phía Tây, quay về vùng đất sơ khai thuở ban đầu, nhằm tránh đại họa diệt quốc có thể xảy ra trong tương lai.
Khi kế hoạch ấy được thực thi, nếu Hoàng đế muốn phát binh tiêu diệt tận gốc hậu họa thì sẽ phải chuẩn bị đầy đủ lương thảo để nuôi quân tiến sâu vào Tây Vực, trong khi vẫn phải đối phó với áp lực từ phương Bắc.
Xét trong tình hình hiện tại, tuy triều Lý cường thịnh, nhưng vẫn chưa mạnh đến mức có thể cùng lúc phát động hai cuộc đại chiến ở cả Tây Vực và miền Bắc.
Cho nên, đây là một phương án khả thi để tránh họa. Song, dời cả một quốc gia về phía Tây có liên quan đến hàng chục vạn dân cư, ngoài binh sĩ còn có biết bao dân thường là phụ nữ, trẻ nhỏ hoặc người già yếu, với họ mà nói, đây hẳn sẽ là một hành trình dài đầy gian nan trắc trở, còn chưa biết dọc đường sẽ phải trải qua bao nhiêu thử thách, hiểm nguy.
Huống hồ, năm xưa, vì ngưỡng mộ văn hóa Trung Nguyên nên tổ tiên người Khuyết mới đi về phía Đông, trải qua bao đời gắn bó máu thịt với mảnh đất này, nếu nay lại buộc phải từ bỏ quê hương từng thấm đẫm mồ hôi và công sức để gây dựng, dù là về tình cảm hay lý trí, đều là việc trọng đại, không thể nói dời là dời ngay được.
Vì thế, suốt hai năm qua, Khuyết vương mới chỉ phái người đi thăm dò tuyến đường Tây hành, tìm kiếm di chỉ tổ tiên năm xưa, đến nay, kế hoạch này vẫn chưa có quyết định sau cùng và luôn nằm trong vòng bảo mật nghiêm ngặt. Ngoài mấy người nắm quyền trọng yếu nhất nước Khuyết, những người khác đều không hay biết.
Lý Huyền Độ là một trong số ít những người được biết về kế hoạch di cư này. Tối nay thấy cữu phụ đưa mình tới nơi đây, hắn đã đoán được ông muốn nói với mình chuyện gì.
Quả nhiên, Lý Tự Nghiệp đi tới trước một bức tường, kéo tấm rèm che xuống, để lộ một tấm bản đồ được treo ở phía sau. Ông chỉ tay vào tuyến đường đã được đánh dấu, gọi Lý Huyền Độ đến xem.
“Lộ trình đã được tuyển định cách đây không lâu. Đó là tuyến đường an toàn và thuận tiện nhất. Nếu đến lúc vạn bất đắc dĩ, cả nước phải dời về phía Tây, thì sẽ đi theo lối này…”
Lý Tự Nghiệp ngừng lời, thần sắc trĩu nặng ưu tư.
“Nhớ năm xưa tổ tiên nước Khuyết chúng ta xuất phát từ phía Đông, dọc đường chặt gai mở lối, gian khổ khai hoang lập nghiệp, mới có được dải đất yên bình này. Không ngờ nay lại phải…”
Viền mắt Lý Tự Nghiệp hoe đỏ, giọng nói cũng trở nên run rẩy, không thể tiếp lời.
Khóe mắt Lý Huyền Độ cũng đỏ lên: “Đều là lỗi của con, khiến Ngoại tổ, cữu phụ và hàng vạn người Khuyết phải sống trong cảnh nơm nớp lo âu, hiểm nguy chực chờ, thậm chí còn phải buộc lòng từ bỏ quê hương―”
Lý Tự Nghiệp lắc đầu: “Liên quan gì đến con? Năm xưa nếu không liên minh với triều Lý, người Khuyết chúng ta đã phải chịu ách áp bức từ người Địch phương Bắc, tồn vong thắng bại, ai có thể liệu trước. Nếu thật sự không còn cách nào, dời về phía Tây cũng không sao, chỉ cần người còn thì nơi đâu chẳng là đất lành. Còn về cội nguồn tai vạ, một nước nhỏ sẽ luôn phải đấu tranh, tìm cách sinh tồn dưới sự chèn ép của các nước lớn. Cục diện hôm nay, là do ông trời sắp đặt. Đế vương bạc tình, con sinh ra trong nhà Đế, là người chịu thiệt thòi nhiều nhất. Dù là ngoại tổ hay cữu phụ, đều chưa từng trách con nửa lời.”
Ông định thần lại, gương mặt chợt nở nụ cười.
“Cữu phụ gọi con đến là vì biết con giỏi mưu lược, có tài thao lược điều binh. Nếu một ngày nào đó thật sự phải dời về phía Tây, việc dời mấy chục vạn dân cũng không khác nào một trận đại chiến. Phân chia nhân lực ra sao, tiếp tế trên đường thế nào, làm sao đảm bảo an toàn, chưa kể còn phải tính đường đi qua biên giới các nước… Từng việc đều cần tính toán kỹ lưỡng. Cữu phụ hy vọng con có thể giúp một tay…”
Lý Tự Nghiệp còn đang nói dở, thì ngoài mật thất bỗng vang lên tiếng cãi vã, nghe ra là giọng của đệ đệ Lý Tự Đạo, hiện đang bị thị vệ chặn lại ngoài cửa, quát tháo om sòm, ông liền chau mày, kéo rèm xuống, rồi bước ra mở cửa.
Lý Tự Đạo đêm nay đã uống không ít rượu, mặt đỏ bừng bừng, vừa xông vào thấy Lý Huyền Độ liền bước tới, vỗ mạnh lên vai hắn, cất giọng sang sảng: “Tứ điện hạ! Tiểu cữu có lời này muốn nói với con đã lâu, nhân dịp này ta sẽ nói thẳng! Hoàng đế Lý triều bây giờ không được như Hoàng đế lúc trước, bức ép quá đà, chẳng chừa đường sống cho ai. Hắn một mực cho rằng con muốn tạo phản, vậy sao con không phản luôn đi? Chỉ cần con hô một tiếng, tiểu cữu sẽ dốc toàn lực trợ giúp, chém, giết, chặt đầu tên cẩu Hoàng đế đó xuống, để con tự lên làm Hoàng đế luôn!”
Đôi mắt đỏ ngầu của y nhìn Lý Huyền Độ chằm chặp: “Con cho cữu cữu một câu trả lời dứt khoát đi, thế nào, rốt cuộc có phản hay không?”
Lý Tự Nghiệp cả kinh, tức giận dữ quát lớn: “Nhị đệ, đệ say rồi! Đệ đang nói bậy bạ gì đó? Còn không câm miệng đi!”
Lý Tự Đạo đưa mắt nhìn quanh một lượt, sải bước đến phía trước tấm rèm, bất ngờ kéo phăng ra, chỉ tay vào tấm bản đồ treo phía trên, cười lạnh đầy khinh miệt: “Vương huynh, ta biết rõ suy nghĩ của huynh, sợ cái này sợ cái kia, chỉ mong dẫn tộc nhân rút về phương Tây. Nhưng dựa vào đâu mà chúng ta phải từ bỏ mảnh đất đã cư ngụ mấy trăm năm nay? Hôm nay ta nói rõ ở đây, bảo ta dời sang Tây, không có cửa! Nếu Tứ điện hạ không muốn phản, vậy thì ta phản! Huynh sợ, nhưng ta không sợ, dũng sĩ dưới trướng ta lại càng không sợ!”
Lý Tự Nghiệp nói: “Ngươi tưởng tạo phản dễ lắm sao? Dựa vào một nước bé tí tẹo, làm sao chống lại được cả triều họ Lý? Nếu chẳng thành, hậu quả sẽ ra sao? Người diệt, tộc cũng không còn! Võ sĩ các ngươi có thể chết, nhưng dân chúng thì sao?”
Lý Tự Đạo đáp: “Từ bỏ lãnh thổ khác nào cái chết? Ta không tin người Khuyết ta đều là hạng nhút nhát! Đến lúc đó, ai muốn chạy thì cứ chạy, ai không đi thì ở lại, đánh một trận là xong!”
Y dừng lại, nhếch môi cười lạnh: “Chẳng phải Đông Địch đang muốn lôi kéo nước Khuyết ta sao? Nếu Tứ điện hạ thật sự không phản, đến lúc đó, đợi các ngươi đi hết rồi, ta sẽ liên thủ với Đông Địch. Cho dù có là chuyện cùng cọp chia da, ta cũng không ngại. Với người Khuyết ta, người Địch và người Lý triều thì có gì khác nhau? Cái gọi là ban họ, ta cũng chẳng cần! Hoàng đế Lý triều đã vô đạo, thì cũng đừng trách ta bất nghĩa! Cùng lắm thì cá chết lưới rách, ta quyết không để cho tên cẩu Hoàng đế ấy được yên!”
Lý Tự Nghiệp giận dữ quát: “Được, được lắm, từ lâu ta đã biết ngươi có lòng riêng, nói không chừng còn ngầm cấu kết với bọn Đông Địch từ trước! Quả nhiên, hôm nay ngươi đã nói ra rồi, ngươi muốn liên thủ với bọn chúng!”
Trong cơn thịnh nộ, ông bất ngờ rút kiếm.
Lý Huyền Độ bước lên một bước, nhanh như chớp nắm lấy tay Lý Tự Nghiệp đang rút kiếm ra, hóa giải thế kiếm, dùng thân mình chắn giữa hai người cậu ruột, thốt lên: “Xin hai vị cữu phụ bớt giận. Hai người đều là trưởng bối của ta, cứ giương cung bạt kiếm thế này, ta biết phải làm sao đây?”
Đến đây Lý Tự Nghiệp mới chịu buông tay khỏi chuôi kiếm, lạnh lùng nói: “Ngươi có biết trên đường tới đây, Tứ điện hạ đã bị thích khách Đông Địch tập kích, suýt chút nữa đã mất mạng hay không?”
Lý Tự Đạo ngây ra, quay ngoắt sang Lý Huyền Độ hỏi: “Huynh ấy nói thật chứ? Người Đông Địch ám sát con sao?”
Lý Huyền Độ gật đầu.
Sắc mặt Lý Tự Đạo trở nên sa sầm, đứng lặng một lúc, không nói lời nào, đoạn xoay người sải bước rời khỏi mật thất.
Sau khi Lý Tự Đạo bỏ đi, gian phòng cũng khôi phục lại sự yên tĩnh ban đầu.
Lý Tự Đạo dũng mãnh thiện chiến, có tiếng tăm không nhỏ trong hàng võ sĩ nước Khuyết, nếu không có phụ vương trấn áp thì hẳn y đã sớm phản đối việc di dời về phía Tây một cách công khai, trong khi sợ rằng chính ông cũng không ngăn nổi vị đệ đệ này.
Đầu Lý Tự Nghiệp đau như búa bổ, lấy lại bình tỉnh, cười khổ với Lý Huyền Độ: “Thôi được rồi, cũng không còn sớm nữa, con về nghỉ trước đi. Chuyện dời về phía Tây, tuy phụ vương chưa có quyết định chính thức, nhưng chắc cũng không thay đổi được nữa đâu, giờ chỉ xem khi nào sẽ tiến hành thôi. Cũng may, tuy tình thế không mấy sáng sủa, nhưng trong vòng một hai năm tới, chắc Hoàng đế cũng chưa phát binh, nên không gấp lắm, những chuyện còn lại, mai hẵng bàn tiếp.”
Lý Huyền Độ nghe theo, cáo từ trở về nghỉ. Hắn cũng khuyên Lý Tự Nghiệp nên sớm nghỉ ngơi, đang định lui ra, chợt nghe Lý Tự Nghiệp gọi với lại, liền hỏi: “Cữu phụ còn chuyện gì sao?”
Lý Tự Nghiệp thất thần một thoáng, rồi nói: “Có chuyện này, lần trước lúc ta đến kinh đô mừng thọ Thái hoàng Thái hậu đã muốn đề cập với con rồi, chỉ là khi ấy chưa phải lúc thích hợp, nên không tiện nhắc, giờ thì vừa khéo, ta sẽ nói luôn. Là về hôn sự của cháu với Đàn Phương. Không biết hiện giờ cháu nghĩ thế nào?”
Lý Huyền Độ trầm mặc.
Năm hắn mười sáu tuổi, nếu không xảy ra biến cố kia thì hẳn đã sớm làm theo sự sắp đặt của phụ hoàng, nạp biểu muội làm trắc phi. Nào ngờ sóng gió ập đến, hắn bị giam vào Chiêu ngục, chịu sự quản thúc, kế nữa là trông giữ hoàng lăng, rồi bị đày đi Tây Hải, chưa ngày nào hắn được sống tự do, cũng chưa ngày nào thoát khỏi vòng giám sát. Chừng ấy năm qua đi, trong những lần liên lạc thưa thớt với cữu phụ, hắn chưa từng một lần nhắc tới biểu muội.
Lần này đến nước Khuyết, thấy Đàn Phương đến nay vẫn chưa gả, hắn liền hiểu, nàng vẫn đang đợi hắn.
Lý Tự Nghiệp lại nói: “Con bé là đứa cố chấp, tuy chưa từng nhắc lấy một câu về chuyện này trước mặt ta, nhưng lẽ nào ta lại không hiểu lòng nó? Trước kia hai đứa tình cảm sâu đậm, nếu không vì con không đành lòng, không cho phép, thì nó đã theo con đến cung Vô Ưu rồi. Nay nó đã đợi con nhiều năm, đương nhiên lại càng không để tâm đến những thứ hư ảo kiểu như thân phận. Hôm nay cữu phụ nhắc đến chuyện này, cũng không phải vì muốn ép con cưới nó ngay lập tức, dù sao lúc này cũng chưa phải thời điểm thích hợp. Điều cữu phụ mong, là con có thể cho nó một lời hứa, bao lâu cũng được, mấy năm cũng được, đợi đến lúc thuận tiện hơn, con hãy cưới nó, cho nó cơ hội được hầu hạ con và hoàng tức. Nó tất sẽ an phận, không gây chuyện thị phi gì đâu.”
Lý Tự Nghiệp thở dài một tiếng, gương mặt lộ vẻ u sầu.
“Điện hạ, hiện nay đúng là thời điểm nguy nan của nước Khuyết ta. Ngoại tổ của con tuổi đã cao, e rằng chẳng còn bao nhiêu ngày nữa. Cữu phụ đây không có tài làm vương, tiểu cữu của con lại càng không thể thống lĩnh người Khuyết. Cữu phụ bất lực, đành gửi gắm toàn bộ hy vọng vào con. Mong con cưới Đàn Phương, không chỉ vì nghĩ cho nửa đời sau của con bé, mà còn đề phòng ngày sau nếu thực sự có biến, sẽ lấy đó để ổn định lòng người. Mong con đừng trách cữu phụ, vì đã đem gánh nặng ngàn cân này đặt cả lên vai con. Cữu phụ cũng không còn cách nào khác. Cữu phụ van cầu điện hạ, xin hãy gánh vác trọng trách này!”
Nói đến đây, Lý Tự Nghiệp bỗng đứng bật dậy khỏi chỗ ngồi, hành đại lễ quỳ bái với Lý Huyền Độ.
Lý Huyền Độ biến sắc, lập tức bước nhanh lên trước, nâng hai cánh tay của ông lên, do dự một lúc rồi nói: “Dù sao cũng là chuyện cả đời của biểu muội, xin cữu phụ hãy cho con thời gian suy nghĩ, vài ngày nữa, con sẽ đưa ra câu trả lời.”
Truyện Hoàng Dung, truyện dịch, truyện chữ... nơi bạn đọc những truyện chất lượng nhất. Đọc truyện là thỏa sức đam mê.

Đăng nhập để bình luận