Một tháng sau, tức tháng Mười Một, là thời điểm bận rộn nhất trong năm của toàn bộ quan viên bộ Lại ở kinh thành.
Theo lệ thường triều đình, vào khoảng này hằng năm, quan viên địa phương từ tứ phẩm trở lên đều phải dâng sớ, báo cáo tình hình thực thi nhiệm vụ trong năm. Gần đây, giữa vô số tấu chương từ khắp nơi dồn dập gửi về, chất đầy án thư, có một bản tấu đặc biệt khiến người ta chú ý.
Bản tấu này đến từ Đô hộ phủ Tây Vực, vượt qua ngàn dặm núi sông, được chuyển đến kinh thành từ ba ngày trước. Bộ Lại không dám chậm trễ, trình thẳng lên ngự tiền ngay trong ngày.
Trong bản tấu này, Lý Huyền Độ, Đô hộ Tây Vực, hoàng thúc Tần vương của Hoàng đế đã bẩm báo một loạt hành động của mình sau khi đặt chân đến Tây Vực. Ở cuối tấu chương, hắn kết luận rằng để thuận tiện cho việc khống chế Trung Đạo, Đô hộ phủ đã dời từ Ô Lũy sang Bảo Lặc; đồng thời theo thỉnh cầu của người Bảo Lặc, hắn xin triều đình chuẩn cho vị vương tử nước Bảo Lặc – người đã đến lánh nạn tại kinh đô từ nhiều năm trước – được phép hồi hương để kế vị, từ đó thể hiện ân uy của triều đình và củng cố tầm ảnh hưởng tại khu vực.
Tính đến nay, đã nửa năm trôi qua kể từ khi Tân đế Lý Thừa Dục đăng cơ. Hiện tại, nhìn bề ngoài, tình hình trong triều dường như đã dần ổn định sau sự hỗn loạn khi Tiên đế Hiếu Xương đột ngột băng hà, từng bước trở lại quy củ. Niên hiệu mới được định là Thiên Thụ, sẽ bắt đầu dùng từ Nguyên Đán năm tới.
Tàn dư của Lưu vương cũng như Hồ gia tháo chạy, trốn xuống Tây Nam, cấu kết với thổ vương bản địa, tập hợp một lực lượng nghe nói lên đến hàng vạn binh mã, âm mưu cát cứ tạo phản. Triều đình xuất binh, chưa đầy ba tháng đã bình định, nhổ tận gốc bè đảng của Lưu vương.
Cục diện căng thẳng phương Bắc cũng được hóa giải. Xem ra, trước đó Đông Địch chỉ dọa suông, đến nay thì im hơi lặng tiếng. Tháng trước, Quảng Bình hầu Hàn Vinh Xương đã về kinh.
Án của Thượng Quan Ung cũng kết thúc.
Ở trong Chiêu ngục, ông ta quyết không nhận tội, về phần dịch bệnh ở Đồng Châu, ông ta một mực cho rằng quan lại địa phương đã bị kẻ khác mua chuộc, cố tình vu oan hãm hại mình. Sau một thời gian treo án không thể giải quyết, vào một buổi sáng, ngục tốt phát hiện Thượng Quan Ung đã treo cổ tự vẫn, để lại một bức huyết thư viết bằng máu từ ngón tay bị cắn rách, bày tỏ sự trong sạch, lấy cái chết để chứng minh.
Cái chết của ông ta khiến đại án này lâm vào ngõ cụt. Tân đế không hạ chiếu truy phong bất kỳ thụy hiệu nào cho cậu ruột của mình là Thượng Quan Ung, chỉ lệnh thu liệm. Trong khi đó, do không đủ chứng cứ, những người còn lại liên quan đến vụ án, bao gồm cả gia tộc Thượng Quan và những người từng thuộc phe Thượng Quan, sẽ không bị truy cứu nữa. Trước thế nào, nay vẫn thế ấy.
Tuy nhiên, dư luận không ngừng dấy lên những lời đàm tiếu, cho rằng đây chính là kế sách “dùng một mạng để đổi lấy sự an toàn cho cả gia tộc và phe cánh”, có thể coi đây chính là nước cờ tuyệt diệu nhất cả cuộc đời Thượng Quan Ung. Thậm chí, một số người còn có suy đoán táo bạo hơn, cho rằng đây là ý định của Tân đế. Nếu Thượng Quan Ung không chết thì sự phẫn nộ của dân chúng sẽ không được xoa dịu; tuy nhiên, nếu ông ta bị định tội, gia tộc Thượng Quan cùng những người thuộc phe ông ta sẽ khó tránh khỏi liên can; trong khi những người này, lại chính là thế lực trung thành tuyệt đối với Tân đế. Do đó, để Thượng Quan Ung chết theo cách này là sự lựa chọn tốt nhất: Tân đế có thể đưa ra lời giải thích đối với bá quan và thiên hạ; gia tộc Thượng Quan cùng bè đảng mất đi thủ lĩnh, tuy chịu đả kích nặng nề, khó lòng lấy lại vinh hiển trước đây chỉ trong một sớm một chiều, nhưng ít ra cũng không đến nỗi bị thương tận gốc.
Mặc dù kết quả này không thể khiến tất cả đều hài lòng, cũng như làm dấy lên không ít dị nghị, nhưng rốt cuộc, vẫn chẳng ai dám đứng ra chất vấn Tân đế. Dù gì đi nữa, chết là hết, Thượng Quan Ung đã treo cổ, lấy cái chết để tự minh oan, nếu cứ khăng khăng đòi truy xét thì chẳng khác nào công khai đối nghịch với Tân đế.
Ấy chính là cục diện kinh thành nửa năm qua. Sau nhiều nỗ lực, mọi chuyện mới trở lại trạng thái bình lặng, nào ngờ chưa được mấy hôm, phong tấu chương bất ngờ kia lại khiến triều đường dậy lên những đợt sóng ngầm mới.
Không ai ngờ rằng sau khi đặt chân đến Tây Vực, Tần vương Lý Huyền Độ lại nhanh chóng khống chế được “yết hầu” của Trung Đạo. Phải biết rằng, sở dĩ sức ảnh hưởng của Đông Địch đối với Nam Đạo không mấy mạnh mẽ là vì khoảng cách địa lý quá xa, lại thêm Vu Điền trấn giữ. Từ trước đến nay, chiến lược trọng tâm của Đại Đô úy Đông Địch tại Tây Vực vẫn là kiểm soát chặt chẽ Trung Đạo và Bắc Đạo. Nay Bảo Lặc, quốc gia lớn nhất ở Trung Đạo, đã quay trở về dưới quyền Đại Lý, về cơ bản, điều này cũng đồng nghĩa với việc thế lực của Đông Địch đang bị ép lui dần ra khỏi trung tâm Tây Vực, chỉ còn co cụm ở Bắc Đạo.
Điều này nằm ngoài dự đoán, nhưng dĩ nhiên, với triều Lý, đây là tin vui làm chấn động lòng người. Nhưng kỳ lại thay, những ngày qua, ngoại trừ vợ chồng vương tử Bảo Lặc từng lưu trú ở kinh thành nhiều năm, vô cùng vui mừng khi nghe tin và háo hức chờ đến ngày trở về, thì trong triều, suốt những buổi chầu sáng, bá quan văn võ đều đồng loạt giữ im lặng, không một ai nhắc tới chuyện này, như thể chẳng hề hay biết. Chỉ đến khi bãi triều, từng người mới phái thân tín đi dò la, lén bàn luận, suy đoán phản ứng của Tân đế đối với việc này.
Ba ngày sau, tại Đông các trong cung Trường Khánh, Lý Thừa Dục cho triệu Quách Lãng, Diêu hầu, Trần Tổ Đức, Hàn Vinh Xương cùng các đại thần đến, lấy ra bản tấu được Đô hộ phủ Tây Vực gửi đến cách đây mấy hôm, nghị bàn về việc đưa vương tử Bảo Lặc về nước kế vị.
Tân đế tọa sau ngự án, người khoác long bào, đeo thắt lưng bằng vàng khảm hoa văn mây rồng. Một vạt nắng từ cửa sổ Đông các chiếu nghiêng vào, phản chiếu hình ảnh con rồng vàng thêu trên long bào, ánh vàng rực rỡ đến chói mắt, khiến người ta không dám nhìn thẳng.
Cung Trường Khánh này được xây dựng từ thời Minh Tông, ban đầu được Minh Tông dùng làm nơi tiếp kiến ngoại thần, ban yến, vui chơi. Từ sau khi Hoàng đế Hiếu Xương đăng cơ, nơi này gần như bỏ trống. Đợi đến khi Lý Thừa Dục lên ngôi chưa được bao lâu, y đã dời nơi xử lý chính vụ hằng ngày ở cung Tử Thần, vốn là nơi bao đời Hoàng đế sử dụng, chuyển hẳn sang đây.
Chỗ này gần Môn hạ tỉnh và Trung thư tỉnh, [1] nơi bá quan làm việc hơn. Theo lời Quách Lãng, đây chính là biểu hiện cho sự cần mẫn, chuyên tâm chính sự của Tân đế, cũng vì vậy nên bá quan càng không tiếc lời ca tụng.
[1]
[1] Theo quan chế nhà Đường, Tam Tỉnh bao gồm ba cơ quan khác nhau phân chia quyền lực hành chính và tư pháp.
– Thượng thư tỉnh: là cơ quan hành chính tối cao, chưởng lãnh bá quan trong triều, nắm giữ quyền hành chính cao nhất dưới hoàng đế, thay mặt hoàng đế thi hành quyền quản lý hành chính, trực tiếp quản lý lục bộ thượng thư.
– Trung thư tỉnh: là cơ quan quyết định chính sách, phụ trách thảo luận, soạn thảo, ban hành chiếu lệnh của Hoàng đế.
– Môn hạ tỉnh: là cơ quan thẩm định, phụ trách thẩm định, xem xét các chính sách của Trung thư tỉnh.

Nguồn chú thích: Wikipedia
Hôm nay, trong Đông các này, ngoài Quách Lãng, Diêu hầu – những bậc lão thần còn sót lại từ triều Hiếu Xương – thì có thêm một gương mặt mới. Ấy chính là Thôi Huyễn. Tuổi còn trẻ mà đã thăng tới chức Tam phẩm Khinh xa Đô úy, có thể nói đây là nhân vật nổi bật nhất kinh thành kể từ khi Tân đế lên ngôi đến nay.
Điều này cũng dễ hiểu thôi. Một đời vua, một đời thần. Tân đế còn trẻ, tất nhiên sẽ thích trọng dụng những người còn trẻ giống mình. Huống hồ, thanh niên họ Thôi này quả thực có bản lĩnh hơn người. Năm ngoái, trong kỳ đi săn mùa thu, hắn không chỉ có màn thể hiện ấn tượng mà còn là công thần, dẹp yên loạn đảng của Lưu vương ở Tây Nam. Sau khi khải hoàn hồi kinh, nhờ công trạng hiển hách, hắn được thăng chức một cách nhanh chóng, không ai bắt bẻ được câu nào mà chỉ muốn tranh nhau nịnh hót. Hôm nay, hắn khoác lên mình bộ võ quan màu tím thêu mãnh thú, tượng trưng cho sức mạnh và dũng khí, đứng trong Đông các. Xung quanh, chúng thần rì rầm dâng lời bàn tấu, chỉ riêng hắn vẫn im lìm như tượng, gương mặt nghiêm lạnh, chẳng hé môi lấy nửa câu.
Quách Lãng, Diêu hầu cùng các đại thần khác đều nói thao thao bất tuyệt về đề nghị của Hoàng đế, nhưng đến lúc tổng kết cũng chỉ gói gọn trong vài ý: suy cho cùng, Tây Vực khởi sắc cũng là nhờ triều đình uy chấn tứ hải, bệ hạ anh minh, quyết tâm trị quốc, lại biết trọng dụng hiền tài. Ai nấy đều nhất trí cho rằng đề nghị của Tần vương là thỏa đáng, đã đến lúc đưa vương tử nước Bảo Lặc trở về Tây Vực để nối ngôi. Vương tử đã ở lại kinh kỳ gần mười năm, nay trở lại cố quốc, đương nhiên sẽ giữ mối quan hệ tốt đẹp với Đại Lý, giúp triều đình chống lại Đông Địch.
Lý Thừa Dục nói: “Trẫm cũng có ý này. Chư khanh đã không phản đối, vậy cứ định như thế đi. Hôm qua, trẫm đã nhận được tấu thư do vương tử nhờ Hồng Lư Tự dâng lên. Ngoài việc cảm tạ ân đức triều đình, y còn thỉnh cầu trẫm hãy phái một người theo y về nước, đảm nhiệm chức Phụ quốc hầu, phò trợ y đăng cơ. Vậy, ai có thể nhận chức này?”
Phụ quốc hầu tuy gọi là “phụ quốc”, nhưng thực chất chỉ là người được triều đình phái sang chư quốc, giám sát mọi việc mà thôi. Vương tử Bảo Lặc sống lưu vong nhiều năm, sớm đã hiểu rõ thế sự, vì muốn Tân đế triều Lý yên tâm thả mình về nước, nên y đã chủ động cầu xin.
Quách Lãng và Diêu hầu đề cử vài người nhưng Lý Thừa Dục dường như chẳng mấy hài lòng, thần sắc vẫn lạnh nhạt, không biểu lộ ý kiến.
Người từ nãy giờ vẫn im lặng là Hàn Vinh Xương cuối cùng không kìm được nữa, bước ra khom người nói: “Bệ hạ, thần nguyện hộ tống vương tử về nước. Còn về chức Phụ quốc hầu ấy, nếu bệ hạ tín nhiệm thần, thần xin được ứng cử!”
Lời vừa dứt, những người còn lại đều kinh ngạc, quay sang nhìn ông.
Chức Phụ quốc hầu nghe thì sang đấy, kỳ thực chỉ là một tiểu hầu trong chư hầu Tây Vực. Ông vốn đã là Quảng Bình hầu triều đình, nay lại chủ động xin đi làm một chức quan nhỏ ở thuộc quốc, chẳng khác nào tự hạ xuống thân phận.
Lý Thừa Dục hỏi: “Khanh thực lòng muốn đi?”
Hàn Vinh Xương khẳng khái đáp: “Xin bệ hạ yên tâm! Thần cam tâm tình nguyện lên đường sang Tây Vực, tiếp tục tận lực vì triều đình!”
Lý Thừa Dục nhìn ông một lúc, khẽ gật đầu: “Trẫm chuẩn. Vậy để khanh đi. Sau khi đến đó, ngoài việc phò trợ Bảo Lặc vương, khanh còn phải hỗ trợ Đô hộ phủ, đồng lòng hiệp lực với Đô hộ phủ, sớm ngày quét sạch thế lực Đông Địch ra khỏi Tây Vực, rõ chưa?”
Hàn Vinh Xương vui mừng, quỳ xuống nhận lệnh.
Lý Thừa Dục gật đầu, như sực nhớ tới điều gì, y nói thêm: “Đúng rồi, còn một việc. Sau khi tới đó, nhớ thay trẫm gửi lời hỏi thăm đến hoàng thúc và hoàng thẩm, cứ nói…”
Khóe môi y chợt hiện lên nụ cười đầu tiên trong ngày: “…nói, trẫm rất nhớ hoàng thúc và hoàng thẩm.”
Y nhả từng chữ một.
Từ đầu tới cuối Thôi Huyễn vẫn giữ sự im lặng, dõi nhìn bóng lưng Hàn Vinh Xương vui vẻ nhận lệnh và rời khỏi hoàng cung. Ánh mắt hắn thoáng động, nhưng rất nhanh sau đó, hắn hạ mi mắt, trở về với vẻ mặt lạnh nhạt thường ngày.
Tin Quảng Bình hầu Hàn Vinh Xương sắp xuất quan, đến nước Bảo Lặc và đảm nhiệm chức Phụ quốc hầu không gây nên nhiều sự chú ý ở kinh đô.
Nếu là trước kia, nhờ mối quan hệ với Trưởng công chúa Lý Lệ Hoa, thỉnh thoảng ông còn có thể xuất hiện trước tầm công chúng, thì nay, đã chẳng còn ai muốn phí công bận tâm đến ông nữa. Bởi hiện tại, chính bản thân Lý Lệ Hoa cũng đang rơi vào tình cảnh đáng xấu hổ.
Cháu ruột của nàng ta là Lý Thừa Dục lên ngôi đã gần nửa năm, trong triều có không ít người được phong quan tiến tước, mỗi nàng ta là người chưa được sắc phong làm “Đại Trưởng công chúa”, tước hiệu mà đáng ra, nàng ta sẽ phải có được.
Nghe đồn Thái hậu Thượng Quan đứng sau chuyện này, cho rằng đức hạnh của nàng ta không xứng với vị trí ấy. Hoàng đế cũng chẳng dám trái ý Thái hậu.
Không có sắc phong của Hoàng đế, Lý Lệ Hoa vĩnh viễn chỉ là “Trưởng công chúa” của tiền triều và không thể nào có được địa vị “Đại Trưởng công chúa” mà nàng ta xứng đáng được nhận. Trong kinh thành, không ít mệnh phụ đem chuyện này ra để cợt nhả, cười thầm sau lưng nàng ta, thậm chí có người còn chẳng buồn che giấu, ngang nhiên khinh miệt nàng ta ngay trước mặt, chẳng hạn như kình địch Tiêu thị của Lý Lệ Hoa.
Lý Lệ Hoa vĩnh viễn không quên được ngày hôm đó, xe ngựa của nàng đi trên đường, tình cờ gặp Tiêu thị đang trên đường vào cung.
Theo lễ chế, dù nàng ta chưa được phong làm Đại Trưởng công chúa thì địa vị vẫn cao hơn Tiêu thị một bậc, lẽ ra Tiêu thị phải nhường đường để nàng đi trước. Nhưng lúc ấy, Tiêu thị cố ý không tránh, chắn xe của nàng ta ngay giữa phố, khiến dân chúng kéo đến vây xem, chỉ trỏ bàn tán. Mãi đến khi tiếng xì xầm vang lên khắp phố, ả mới giả vờ quát mắng nô bộc, hạ lệnh nhường đường.
Lý Lệ Hoa nghe rõ mồn một, lúc xe ngựa lướt qua nhau, từ trong xe ả ta vọng ra một tiếng cười khẩy, kèm theo câu nói móc: “Trưởng công chúa thiên tuế, thiên thiên tuế.”
Khi ấy, Lý Lệ Hoa hận đến gần như phát cuồng, âm thầm thề độc, một ngày nào đó, nàng ta nhất định sẽ dẫm nát đám tiện nhân như Thái hậu Thượng Quan và Tiêu thị dưới chân, để chúng sống không được, chết cũng không xong. Nhưng Lý Lệ Hoa cũng hiểu rõ, nay thời thế đã khác, nàng ta chỉ có thể nhẫn nhịn, nuốt hận vào lòng. Từ ngày ấy trở đi, nàng ta tránh xuất hiện tại các buổi tụ họp, lui về biệt trang ở ẩn. Hôm nay vừa trở về thì lại hay tin Hàn Vinh Xương sắp đi Tây Vực nhậm chức Phụ quốc hầu, cơn giận bùng lên, nàng ta nổi trận lôi đình, quát tháo om sòm nhưng cũng chẳng thay đổi được gì. Nghĩ tới nghĩ lui, nàng ta bèn lên xe, đi thẳng đến cung Bồng Lai.
Song cũng giống như những lần trước, nàng ta vẫn không thể gặp được Khương thị.
Trần nữ quan báo rằng Thái hoàng Thái hậu đang dưỡng bệnh, không tiện tiếp khách.
Ngày Lý Thừa Dục chính thức đăng cơ, sau khi từ Thái miếu trở về, Khương thị lại ngã bệnh, hiếm khi gặp ai. Lý Lệ Hoa lấy cớ thăm bệnh để cầu kiến nhiều lần nhưng vô ích. Hôm nay cũng không ngoại lệ.
Không còn cách nào khác, nàng ta đành quay về. Nghĩ đến Thẩm Dương, nàng ta cố đè nỗi phẫn hận trong lòng, định sai thân tín đến gặp để hỏi xem gã đang có dự định gì, nhưng vận rủi chưa bao giờ đến một mình (họa vô đơn chí), nàng ta lại nhận được thêm một tin tức mới.
Hôm qua, Thẩm Dương đã dâng tấu xin được từ quan, thôi giữ chức Nam Tư tướng quân. Gã viện lý do từ nhỏ mình đã được thúc phụ nuôi dưỡng, ân nghĩa như cha, nay thúc phụ qua đời, gã không thể tiếp tục nhập triều làm quan mà muốn về quê thủ hiếu.
Với Lý Lệ Hoa, tin này chẳng khác nào sét đánh. Nhưng kết quả này, với đám triều thần đã sớm ngửi thấy mùi bất ổn và ngầm dõi theo mà nói lại chẳng phải điều gì bất ngờ.
Ngay từ buổi nghị bàn về việc đưa vương tử Bảo Lặc trở lại Tây Vực, Thẩm Dương đã vắng mặt. Không chỉ hôm đó, suốt nửa năm nay, kể từ khi trở về sau tang lễ của thúc phụ, gã đã dần rút lui khỏi trung tâm quyền lực.
Là cựu thần được Tiên đế sủng ái, rõ ràng y không được Tân đế Lý Thừa Dục tín nhiệm. Đã không tín nhiệm, thậm chí còn bị ngài đề phòng. Có lời đồn rằng, việc gã đích thân về quê, chủ trì tang lễ của thúc phụ, thực chất là vì tuân theo ý chỉ của Tân đế. Khoảng thời gian gã rời khỏi kinh đô, một số nhân sự ở Nam Tư đã bị điều chuyển và thay đổi. Sau khi quay lại, suốt hai tháng nay, gã luôn viện cớ ốm đau, hiếm khi lên triều. Cuối cùng, đến hôm qua, trên triều đường, người bấy lâu nay ít khi xuất hiện, đã chủ động dâng biểu, xin từ chức, lấy lý do là muốn giữ tang.
Hoàng đế chuẩn tấu, khen ngợi những đóng góp trước đây của gã, ban thưởng hậu hĩnh và còn dặn gã rằng nhất định phải hồi kinh sau khi mãn tang, lúc đó, triều đình ắt sẽ trọng dụng trở lại.
Thẩm Dương cảm niệm Thánh ân, nghẹn ngào rơi lệ giữ triều đường, khấu đầu tạ biệt tân quân. Gã đứng dậy, dưới vô số ánh mắt dõi theo trong điện, cung kính lui ra, trở về phủ Nam Tư, chờ người kế nhiệm đến tiếp quản
Khoảnh khắc ấy đến rất nhanh.
Từ ngày đầu tiên triều Lý khai quốc, trong mắt người thường, phủ nha Nam Tư vẫn luôn là một nơi nắm trong tay quyền uy ngất ngưởng.
Những người từng thống lĩnh nơi này, như Khương Nghị, hay các đời tiền nhiệm khác, đều là những nhân vật quyền thế một thời, cũng như có điểm chung là đều xuất thân từ thế gia vọng tộc. Vị Nam Tư tướng quân đương nhiệm, Thẩm Dương, chính là một ngoại lệ. Gã xuất thân bần hàn, song suốt gần trọn triều Hiếu Xương, dưới sự cầm quyền của gã, thế lực Nam Tư được bành trướng hơn rất nhiều so với thời Khương Nghị, đạt đến đỉnh cao quyền lực. Nhắc đến phủ nha Nam Tư, ai nấy đều mặt mày xanh mét.
Thế nhưng trên thực tế, phủ Nam Tư nằm bên ngoài hoàng cung này lại chẳng có gì nổi bật. Sơn trên đại môn đã loang lổ bong tróc, ngạch cửa bọc sắt đầy những vết bẩn tích tụ theo năm tháng, in dấu giẫm đạp bằng ủng sắt của võ quan suốt bấy nhiêu năm. Trên nền gạch xanh của đại đường, thậm chí vẫn còn in đầy những hố lõm, những vết rạn hằn sâu bởi lưỡi đao mũi kiếm từng gõ xuống.
Nhiều năm trước, Thẩm Dương đã tiếp nhận tín ấn, thứ biểu tượng cho quyền lực tối cao tại Nam Tư từ tay Khương Nghị.
Hôm nay, ấn đồng ấy vẫn ở đó, nằm lặng lẽ trước bàn làm việc của gã, và đã đến lúc gã phải trao trả lại.
Một vệt nắng chiều chiếu xiên qua cánh cửa nửa khép nửa mở của Nam Tư, chiếu xuống nền nhà đầy những đường nứt xiêu vẹo.
Một bóng dáng gầy nhưng rắn rỏi xuất hiện trước cửa.
Đó là một thanh niên. Hắn nhấc tay, đẩy toang cánh cửa, giữa luồng sáng hoàng hôn bất ngờ tràn ngập vào đại đường, hắn sải bước qua ngưỡng cửa, đi thẳng đến trước mặt Thẩm Dương. Đôi mắt hắn nhìn thẳng vào đối phương, giọng nói đều đều, không chút cảm xúc: “Thẩm tướng quân, đắc tội rồi.”
Thẩm Dương ngồi yên sau quan án trong đại đường, từ từ ngẩng mắt, nhìn về phía người đang dừng trước mặt mình: Thôi Huyễn.
Ánh mắt gã chạm phải đôi con ngươi sắc lạnh của Thôi Huyễn. Khoảnh khắc ấy, gã thoáng ngẩn ngơ, nhớ lại lần đầu tiên trông thấy thiếu niên đến từ Hà Tây này.
Ngay khi ấy, gã đã có trực giác rằng: thiếu niên này, một ngày nào đó, sẽ trở thành kẻ địch của mình.
Đó là bản năng của một thợ săn khi chạm mặt đồng nghiệp lúc đi săn. Dù đối phương có ngụy trang đến thế nào, hơi thở đẫm mùi máu kia cũng không thể nào thoát khỏi khứu giác gã.
Gã hơi hối hận, hối hận vì khi ấy đã xem nhẹ hắn, không ra tay sớm trước khi hắn kịp trở nên lớn mạnh, để giờ lưu lại mối họa về sau.
Giờ đây, linh cảm ngày trước, quả nhiên đã ứng nghiệm.
Thẩm Dương không thể không ngờ rằng cái chết của Hoàng đế Hiếu Xương, tất có quan hệ trọng đại với người thanh niên trước mặt này.
Thậm chí, đặt mình vào vị trí của gã, hắn tự thấy mình khó có thể hành động một cách dứt khoát đến lạnh lùng như thế. Điều đáng sợ nhất ở Thôi Huyễn là hắn chấp nhận không chừa lại đường lui, đặt cược tất cả chỉ trong một ván.
Hắn đã làm, và hắn đã thắng.
Trong lòng Thẩm Dương thoáng dấy lên một luồng hàn ý rờn rợn, như thể bị hậu bối ép sát từng bước.
Cái chết của Hoàng đế Hiếu Xương đến quá đột ngột, gã không hề phòng bị, mọi tính toán đều bị xáo trộn.
Giờ, chính là lúc gã nên tạm thời thoái lui.
Chỉ là tạm thời mà thôi.
Gã giơ hai tay lên, tháo mũ quan trên đầu xuống, đặt ngay ngắn bên cạnh ấn tín trên bàn, sau đó đứng dậy, mỉm cười với chàng trai trước mặt, nói: “Thôi tướng quân, hậu hội hữu kỳ.” [2]
[2] hậu hội hữu kỳ: sẽ còn ngày gặp lại
Dứt lời, Thẩm Dương đi ngang qua người thanh niên kia, bước qua ngưỡng cửa, sải bước đi thẳng.
Truyện Hoàng Dung, truyện dịch, truyện chữ... nơi bạn đọc những truyện chất lượng nhất. Đọc truyện là thỏa sức đam mê.

Đăng nhập để bình luận