Khi xung quanh không còn ai nữa, một lúc sau, Lý Huyền Độ mới lên tiếng.
Hắn hỏi: “Vì sao nàng không nghe lời, cứ nhất định phải đi?”
Bởi ta biết điều chàng sắp làm là một việc vô cùng gian nan.
Bởi ta không muốn tiếp tục sống trong những ngày tháng mòn mỏi chờ đợi, chịu đựng nỗi giày vò khi ngóng đợi tin chàng.
Và bởi ta muốn san sẻ gánh nặng với chàng, nhiều nhất có thể.
Nàng hỏi ngược lại: “Vì sao chàng không để ta đi?”
“Là vì sợ ta gặp nguy hiểm sao?”
Không đợi hắn trả lời, nàng lại nói tiếp: “Điện hạ cũng nghe Trương Tróc nói rồi đó. Đây là một cơ hội tốt để giảm bớt thương vong.”
Lý Huyền Độ vẫn giữ nét mặt căng cứng: “Giảm bớt thương vong, đương nhiên là điều ta mong muốn. Nhưng nếu phải dùng sự an nguy của một người phụ nữ như nàng để đánh đổi, thì thật là nhục nhã!”
Bồ Châu khẽ lắc đầu: “Chàng nghĩ sai rồi. Ta không dám bảo đảm liệu nữ tộc trưởng kia có chịu quy thuận hay không. Nhưng ta có linh cảm rằng lời hồi đáp này của bà ấy ít nhất không hề có ác ý. Chàng nghĩ mà xem, nếu bà ấy muốn làm hại người khác, thì hoàn toàn có thể nhân cơ hội này dụ chàng tới, trực tiếp ra tay với chàng. Chỉ cần loại bỏ được chàng, Đô hộ phủ tất nhiên sẽ tan rã, hà tất phải phí công lừa ta đến trước? Còn nếu muốn bắt ta để uy hiếp chàng thì càng không cần phải vòng vo đến mực này. Điều này thực sự vô lý!”
Nàng nói tiếp: “Ta không có bản lĩnh gì lớn lao, nhưng ta hứa sẽ tùy cơ ứng biến. Ta không phải người không biết tự lượng sức mình. Bất cứ điều gì ta không thể làm được, nhất định ta sẽ không cố ép, kẻo lại cản trở đại sự của chàng. Nhưng nếu có thể, mong chàng đừng ngăn cản ta.”
Sắc mặt vốn căng cứng của Lý Huyền Độ rốt cuộc cũng hơi giãn ra.
Song hắn vẫn bướng bỉnh mím môi, chưa chịu gật đầu.
Bồ Châu chờ thêm một lúc rồi chậm rãi bước đến trước mặt hắn. Nàng ngước nhìn hắn và nói: “Điện hạ, trận chiến này rất quan trọng đối với Đô hộ phủ. Hy vọng chàng có thể xây dựng được nền móng vững chắc, hoàn thành sứ mệnh càng nhanh càng tốt. Chỉ có như vậy, nguyện vọng của ta mới sớm thành hiện thực.”
“Ta giúp chàng, cũng là đang giúp chính bản thân ta!”
Một nỗi cay đắng khó nhận ra thoáng hiện trong ánh mắt Lý Huyền Độ.
Hắn hơi cúi đầu, đối diện với ánh mắt nàng đang ngước lên nhìn mình. Một lát sau, khóe môi hắn hơi nhếch lên, như mang theo ý cười chua chát, hạ giọng nói: “Thôi vậy! Đúng là ta nói không lại nàng…”
Hắn đồng ý rồi!
Bồ Châu mỉm cười, đưa hai cánh tay vòng qua cổ hắn, nhón chân, hôn nhẹ lên đôi môi vừa nãy vẫn còn cố chấp mím chặt kia, rồi buông ra ngay: “Vậy ta đi gọi họ quay lại để cùng bàn bạc—”
Lý Huyền Độ nắm tay nàng, thấy nàng dừng lại quay đầu nhìn mình, hắn suy nghĩ một lát rồi nói: “Ta sẽ đưa nàng qua đó.”
…
Sáng hôm sau, khi trời còn mờ sáng, đoàn người đã lên đường. Dưới sự dẫn dắt của Trương Thạch Sơn, họ đi suốt mấy ngày liền, đến chiều tối hôm nay thì tới được thành Sương thị thuận lợi.
Thành Sương thị có địa thế Bắc cao Nam thấp: phía Nam bằng phẳng, quanh năm xanh mướt nhờ có ốc đảo bao bọc; còn phía Bắc lại là dãy núi phong hóa, từ thoai thoải rồi dần dần nâng lên. Lũy thành không nằm giữa trung tâm mà tựa lưng vào vùng địa hình hiểm trở nhất ở rìa phía Bắc, nhờ vậy, toàn cảnh hiện ra với sự tương phản rõ rệt: ngay trước đại môn là phố chợ nhộn nhịp, kẻ bán người mua; phía sau lũy thành là một vách đá dựng đứng cao hàng chục trượng. Trải qua ngàn năm gió cát bào mòn, vách đá chi chít những vết nứt như bị dao chém rìu bổ. Xa hơn nữa là vùng hoang mạc mênh mông bên ngoài ốc đảo, tựa như một lá chắn tự nhiên, chặn mọi bước tiến của kẻ địch.
Lý Huyền Độ đưa Bồ Châu đến trước lũy thành Sương thị.
Tương truyền tòa kiến trúc này đã tồn tại cả trăm năm, bên ngoài trông nặng nề và u ám, nhưng chiếm một khoảng đất rộng lớn và hùng vĩ, tựa như một con mãnh thú khổng lồ đang nằm phục trên đỉnh cao nhất của lũy thành, dùng ánh mắt trầm mặc và uy nghiêm, trông xuống chúng sinh đang qua lại dưới chân mình.
Trương Thạch Sơn tiến lên gõ cửa. Cánh cổng lớn nhanh chóng mở ra, người gác cổng mấy hôm trước xuất hiện. Ông ta nhận ra Trương Thạch Sơn, biết người gia chủ muốn gặp đã đến, bèn bảo họ đợi một lát.
Chẳng bao lâu, một quản sự vận hoa phục từ sau cổng đi ra, khuôn mặt mang theo ý cười, khom người mời Bồ Châu vào trong.
Lý Huyền Độ định bước theo, nhưng bị quản sự ngăn lại. Giọng điệu tuy khách khí nhưng không cho phép phản bác, ông ta nói gia chủ chỉ mời mỗi nữ lang họ Bồ mà thôi.
Lý Huyền Độ nói: “Ta là tùy tùng của nàng! Nàng đi đâu, ta tất phải theo đó!”
Quản sự đáp: “Gia chủ chỉ cho phép nữ lang Bồ thị một mình tiến vào.” Dứt lời, ông ta ngắm nhìn Lý Huyền Độ một lượt, rồi cung kính nói: “Hẳn ngài là Tần vương điện hạ?” Lúc nói câu này, ông ta đổi sang dùng tiếng Hán. Dẫu không quá trôi chảy, nhưng cũng xem như không tệ.
Sắc mặt Lý Huyền Độ thoáng hiện vẻ giận dữ. Hắn nắm tay Bồ Châu, kéo nàng xoay người, định bỏ đi.
Quản sự cũng không ngăn cản, chỉ đứng trên bậc thềm, thấy Bồ Châu quay đầu nhìn mình, khóe môi ông ta nhếch lên, khẽ cười, tay vuốt một lọn râu cong trên mép, cúi người lần nữa.
Lý Huyền Độ sầm mặt, hạ giọng nói: “Ta có linh cảm chẳng lành, nữ tộc trưởng kia không hề có ý tốt! Đi thôi, nàng đừng vào nữa!”
Bồ Châu dừng bước, liếc nhìn cánh cổng kia, chần chừ một thoáng rồi nói: “Ta thấy không sao đâu. Chàng chớ đa nghi. Chàng chờ ta một lát là được.” Nói xong, thấy hắn vẫn cố chấp nắm chặt tay mình không buông, nàng bèn gỡ từng ngón tay hắn, động tác dịu dàng, cuối cùng rút được tay ra, không quên vỗ nhẹ lên mu bàn tay hắn như để trấn an. Rồi nàng xoay người bước lên bậc thềm, đi tới trước mặt quản sự, khẽ gật đầu, theo ông ta vượt qua cánh cổng, tiến vào trong.
Sau cánh cổng lớn là một viện tứ hợp thông thường, mặt đất lát gạch ngay ngắn. Cạnh đó là dãy nhà có vẻ dùng làm nơi đón tiếp khách khứa thường ngày. Đi hết sân viện và dãy nhà ấy là tới một hành lang thông ra phía sau.
Chính lúc này, Bồ Châu mới cảm nhận được sự khác thường của nơi đây.
Hai bên hành lang đều được xây từ những tảng đá lớn. Đi thêm một đoạn, nàng bắt đầu có cảm giác như đang lạc vào mê cung. Lối đi khúc khuỷu ngoằn ngoèo, phía trên là những giếng trời dày đặc, ánh sáng mỗi lúc một u tối hơn, dần dần không phân biệt được phương hướng.
Trên đường tới đây, Trương Thạch Sơn từng nói: có lời đồn rằng lũy thành của Sương thị từng vây chết kẻ địch xâm nhập. Ban đầu nàng còn không tin, cho rằng chỉ là lời phóng đại, nhưng đến giây phút này, khi tận mắt chứng kiến, nàng mới thấy lời đồn này e rằng chẳng sai.
Nếu giờ bảo nàng tự mình quay ngược trở ra, có khi nàng cũng chẳng tìm nổi đường.
Sự lo lắng trong lòng nàng mỗi lúc một lớn dần. Nàng sợ lạc đường, đành bước sát theo vị quản sự, men theo những hành lang nhìn giống hệt nhau, vòng vèo suốt chừng nửa khắc, rốt cuộc cũng thoát ra ngoài.
Trước mắt đột nhiên sáng bừng, tòa cung điện nguy nga cũng hiện ra.
Tòa kiến trúc ẩn sâu giữa lòng lũy thành này hoàn toàn khác biệt với vẻ cổ kính trầm mặc mà nàng vừa thấy bên ngoài. Tường quét vôi trắng, mái ngói trang trí bằng ngọc lưu ly và đồ chạm vàng, cửa sổ cửa lớn sơn son đỏ thẫm, khảm ngọc bích xanh biếc. Cả tòa nhà xa hoa tráng lệ, giống như nơi ở của thần linh, lại tràn ngập vẻ huyền bí của dị vực.
Không ngờ trong tòa lũy thành này, lại có một gian nhà lộng lẫy đến vậy.
Sự căng thẳng bất an do đoạn mê cung vừa rồi mang đến cũng dần tan biến, thay vào đó là sự kinh ngạc. Nàng càng lấy làm hiếu kỳ về nữ tộc trưởng tộc Sương từng được phụ thân nàng ghi chép trong nhật ký.
Nàng theo chân quản sự đi tiếp, băng qua một tiểu viện lát đầy vỏ sò, cuối cùng dừng lại trước một cánh cửa sơn son.
Quản sự đẩy cánh cửa khép hờ ra, cũng không hề thông báo, chỉ ra hiệu mời nàng tiến vào.
Bồ Châu hít sâu một hơi, lấy lại bình tĩnh, bước lên bậc thềm để tiến vào trong, lọt vào mắt nàng là cảnh trí còn choáng ngợp hơn những gì vừa trông thấy bên ngoài gấp bội. Trên đầu là mái vòm chạm trổ nhiều lớp, mạ vàng tô màu, họa tiết hoa sen, hoa súng tinh xảo trải khắp trần nhà, lớp lớp nở rộ. Vách tường phủ kín lụa mịn, những món đồ bày trí và dụng cụ trong phòng, hoặc là sơn son thếp vàng, hoặc là sáng rực ánh kim. Thế nhưng bên trong lại vắng lặng khác thường, ngay cả một người hầu hoặc một tỳ nữ cũng không có.
Bồ Châu đứng ở ngưỡng cửa một lát, rồi bước vào, vừa đi vừa quan sát bốn phía. Bất chợt, nàng cảm giác như có ánh mắt nào đó dõi theo mình từ phía sau.
Nàng giật mình ngoảnh lại, liền thấy bên cạnh một cánh cửa nhỏ là một người phụ nữ đang lặng lẽ đứng đó.
Người phụ nữ ấy trạc ngoài bốn mươi, dáng người cao gầy, nước da trắng mịn, gương mặt mang nét khác biệt so với phụ nữ Hán. Tuy tuổi xuân đã qua, khóe môi đã hằn chút nếp nhăn, khiến dung mạo được tăng thêm vài phần nghiêm nghị, nhưng từ đường nét gương mặt và ánh mắt là có thể đoán được, khi còn trẻ bà đã từng là một mỹ nhân tuyệt sắc.
Bằng trực giác, Bồ Châu tin rằng người phụ nữ này chính là nữ tộc trưởng họ Sương. Đối phương trẻ hơn so với tưởng tượng của nàng, bà mặc một chiếc áo choàng đen, không đeo trang sức, nhìn hết sức giản dị và khá lạc lõng giữa khung cảnh vàng son này, do vậy nàng không dám tùy tiện mở lời. Đợi một hồi, thấy đôi mắt kia vẫn nhìn mình không chớp, nàng mới lên tiếng: “Ta là nữ nhi Bồ gia, xin hỏi phu nhân có phải là tộc trưởng của tộc Sương không?”
Nàng dùng tiếng bản địa để nói câu ấy. Vừa dứt lời, nàng liền thấy người phụ nữ ấy cất bước tiến lại gần mình, dừng ngay trước mặt, song vẫn không nói gì, chỉ tiếp tục nhìn nàng chăm chú.
Bồ Châu bị ánh nhìn ấy làm cho bối rối, nhưng vẫn bình tĩnh đứng chờ. Chỉ một lát sau, cuối cùng bà cũng có phản ứng, như khẽ thở dài bằng giọng địa phương: “Giống lắm… giống lắm…”
Bồ Châu nhất thời không nghe rõ, thấy bà như đang lẩm bẩm tự nói, nàng giữ lễ, tất nhiên không tiện gặng hỏi.
Bà thở dài xong, như chợt bừng tỉnh, lại gật đầu: “Không sai, ta chính là Sương thị! Bức thư lần trước là do cháu và trượng phu của cháu viết sao?”
Bà đã đổi sang nói tiếng Hán, không ngờ giọng điệu lại vô cùng lưu loát.
Có không ít quốc vương hoặc quý tộc ở Tây Vực nói được một vài từ Trung Nguyên, nhưng để trôi chảy như nói tiếng mẹ đẻ thì quả là hiếm thấy, trừ phi lúc còn nhỏ từng được đưa vào Trung Nguyên du học hoặc làm chất tử trong triều đình.
Thế nhưng, theo như Bồ Châu được biết, nữ tộc trưởng họ Sương này chưa từng đặt chân đến kinh đô.
Nàng có phần sửng sốt, nhưng vẫn kịp phản ứng rất nhanh, gật đầu đáp lời, rồi tiến lên hành lễ: “Cháu gái Bồ thị Xu Xu, ra mắt tôn trưởng.”
Nếu nàng đi theo Lý Huyền Độ, địa vị của nàng chắc chắn còn cao hơn cả nữ tộc trưởng Tây Vực này. Nhưng hôm nay nàng đến đây là để cầu xin, hơn nữa vì đối phương có mối giao tình cũ với phụ thân, nên tất nhiên nàng phải hành lễ theo bối phận.
Nữ tộc trưởng gật nhẹ đầu, bước đến ngồi xuống chiếc ghế khảm vàng có tay vịn, nạm bảo thạch màu lam tạo hình chim công, rồi ra hiệu cho nàng ngồi.
Hai thị nữ tay cầm đĩa vàng, bình vàng lặng lẽ đi vào, quỳ xuống đặt trước mặt hai người mỗi người một chiếc chén vàng, rót trà sữa vào, sau đó lui ra.
Nữ tộc trưởng ra hiệu, mời nàng dùng trà.
Bảo Châu nâng chén nhấp một ngụm, chỉ thấy hương vị ngọt ngào, thơm ngậy, không hề dính chút mùi tanh, liền khen ngợi rồi cảm tạ.
Sương thị mỉm cười, rồi hỏi: “Làm sao ngươi biết phụ thân ngươi và ta có quen biết nhau?”
Khi hỏi câu ấy, bà ngồi thẳng lưng, nét mặt hơi nghiêm, khôi phục vẻ uy nghi ban đầu. Dứt lời, ánh mắt bà lại dán chặt vào người nàng, tập trung lắng nghe.
Bồ Châu không muốn nói dối, dù thừa nhận từng nghe phụ thân kể về bà lúc còn nhỏ sẽ khiến khoảng cách giữa hai người được kéo gần hơn. Nàng chọn cách thành thật: “Trước đây cháu tình cờ tìm được cuốn nhật ký Tây hành của tiên phụ, trong đó có nhắc đến tộc trưởng, bởi vậy cháu mới biết tên người.”
Sương thị nghe vậy thoáng khựng lại, ánh mắt thoáng hiện vẻ trầm ngâm.
Bồ Châu đợi một lát, thấy bà không có phản ứng gì, bèn nói tiếp: “Thác Càn là kẻ thù của trượng phu cháu. Đây là cuộc chiến sống còn, không có chỗ cho sự thỏa hiệp. Hắn không phải dòng chính thống của Bảo Lặc, mà chỉ là một tên gian thần được người Đông Địch nâng đỡ lên ngôi, là một tên vua bù nhìn, bòn rút máu thịt của dân chúng, hiến họ oán hận thấu xương. Nhưng tộc trưởng thì khác. Cháu từng nghe nói họ Sương là thế gia vọng tộc ở Bảo lặc, tộc trưởng không chỉ có địa vị tôn quý mà còn biết nhìn xa trông rộng. Vậy nên cháu đã dựa vào chút giao tình xưa cũ giữa tộc trưởng và tiên phụ để mạo muội viết lá thư này. Mong tộc trưởng lấy đại cục làm trọng, nếu có thể dẹp yên loạn thế, phò chính diệt tà, ấy chẳng những là phúc của muôn dân Bảo Lặc, mà cũng là may mắn lớn nhất của cháu gái!”
Sương thị nghe xong, liếc mắt nhìn nàng, vẻ mặt lạnh nhạt: “Ăn nói đĩnh đạc lắm, đúng là có vài phần phong thái của phụ thân ngươi khi xưa…”
Chợt bà ngừng lại, vẻ mặt bỗng trở nên nghiêm nghị, nói: “Đúng, Thác Càn không được lòng người, Đông Địch dã man như thú, nhưng ta cũng không phải người Hán, hà cớ gì lại phải giúp các ngươi? Người Hán và người Địch tranh giành, giao chiến, phá hoại sự bình yên của dân tộc ta, chẳng lẽ các ngươi không có mưu đồ gì?”
Bồ Châu đứng dậy, vẻ mặt nghiêm trang: “Cháu gái không dám phản đối điều đó, nhưng mục đích quân Hán tiến vào Tây Vực không hề giống với Đông Địch. Đông Địch bạo ngược hà khắc, muốn chiếm giữ là vì coi Tây Vực như kho lương khổng lồ, coi dân Tây Vực như bầy nô lệ để mặc sức vơ vét. Còn đại quân người Hán tiến vào Tây Vực là để giữ núi sông, trấn địa thế, bảo đảm tuyến đường Đông Tây được nối liền thông suốt; suy cho cùng, cũng vì muốn duy trì sự hòa bình cho bốn phương. Nhiệm vụ của Đô hộ phủ không phải nhằm bóc lột Tây Vực, mà là để giữ vững nội địa, giám sát các thế lực ngoại bang.”
“Nhiều năm trước, phụ thân cháu từng mang tiết trượng đi sứ Tây Vực, chư quốc đều thần phục, tự xưng là thuộc quốc của triều Lý. Khi ấy, tộc trưởng có nghe nói về việc triều Lý ta bóc lột dân Tây Vực, bòn rút thuế khóa bao giờ chưa? Trái lại, ân thưởng ban xuống, ân trạch rải khắp bốn phương. Luôn luôn như thế và sẽ không bao giờ thay đổi, bây giờ và cho cả mai sau.”
Sương thị nhìn nàng chằm chằm một lúc lâu song vẫn không nói gì.
Bảo Châu nín thở chờ đợi một hồi, thấy bà vẫn chưa tỏ thái độ gì, bèn cân nhắc giây lát rồi nói tiếp: “Nếu vừa rồi cháu chỗ mạo phạm thì xin tộc trưởng lượng thứ. Hôm nay cháu đến quấy rầy là bởi nhớ rằng, trong nhật ký phụ thân có nói tộc trưởng là người trọng nghĩa. Những điều nên nói, trượng phu cháu đã viết rõ trong thư: chỉ cần loại trừ tên bù nhìn giả mạo vương quyền, quét sạch thế lực Đông Địch khỏi giao lộ này, thì chư quốc vẫn sẽ như cũ, Đô hộ phủ tuyệt không can thiệp vào nội bộ các nước, địa vị của tộc trưởng sẽ không bị suy chuyển nửa phần.”
“Dù tộc trưởng có tương trợ hay không, thì cháu vẫn lấy làm vinh hạnh khi có được cơ hội bái kiến tộc trưởng hôm nay. Không dám quấy rầy sự thanh tịnh của tộc trưởng thêm nữa, cháu gái xin cáo từ trước.”
Nàng lại hành lễ hậu bối với Sương thị lần nữa, rồi quay người bước ra ngoài. Đến cửa, đột nhiên nàng nghe thấy giọng Sương thị vang lên phía sau: “Xu Xu!”
Tim Bồ Châu như thắt lại.
Bà ấy vừa gọi thẳng nhũ danh của nàng.
Bản năng mách bảo nàng, có lẽ đây là một bước ngoặt.
Nàng cố giữ bình tĩnh, vừa xoay người lại liền thấy Sương thị lấy ra một tấm da cừu mềm mại, thoạt nhìn như tấm bản đồ, từ chiếc tráp chạm trổ dát vàng, đoạn chỉ vào đó rồi nói: “Đây là bản đồ chi tiết của Yến thành, có đánh dấu cụ thể chỗ giam giữ vương tử nước Vu Điền, đồng thời ghi chú các điểm canh gác an ninh trong toàn thành. Ngoài ra, nếu Lý Huyền Độ giao chiến với Thác Càn, quân mã của ta sẽ không tham dự.”
Bà nhìn thẳng vào nàng: “Vậy, cháu thấy có được không?”
Bồ Châu không khỏi kích động.
Có được bản đồ Yến thành kèm theo bố trí phòng thủ, kinh đô nước Bảo Lặc chẳng khác nào mất đi lớp phòng ngự. Đối với Lý Huyền Độ, việc cứu người sẽ không còn là bài toán nan giải. Hơn nữa, trong trận chiến này, nếu Thác Càn thiếu đi binh mã của Sương thị thì nói hắn đã “gãy mất một cánh tay” cũng chẳng phải lời nói khoa trương.
Không chỉ là được, mà phải là quá quá quá được.
Nàng gần như chạy về phía Sương thị, liên tiếp cúi đầu tạ ơn, vui mừng khôn xiết.
Sương thị đỡ nàng đứng dậy, nhìn vào đôi mắt sáng trong quen thuộc của thiếu nữ trước mặt: “Nhưng ta có một điều kiện.”
Bồ Châu liền nói: “Xin người cứ nói. Chỉ cần cháu có thể làm được, nhất định cháu sẽ đồng ý.”
Sương thị vừa nắm tay nàng, vừa dịu giọng nói: “Ta không con không cháu, thấy cháu minh châu tiên lộ nên rất quý mến. Cháu có thể ở lại, bầu bạn với ta ít ngày không?”
Bồ Châu không ngờ Sương thị lại đưa ra yêu cầu kiểu này, hơi sững người, nhanh chóng suy tính một lượt.
Việc tiếp theo Lý Huyền Độ phải làm chính là cứu người, sau đó tất sẽ giao chiến với Thác Càn. Những chuyện này nàng không giúp được gì, ở lại Ô Lũy hay ở lại đây cũng chẳng khác gì nhau.
Sương thị đã đồng ý giúp đỡ, quả là một ân huệ lớn lao, giờ bà chỉ muốn nàng ở lại bầu bạn vài ngày, vậy có gì là không thể?
Bồ Châu liền gật đầu: “Được! Chỉ cần người không chê cháu làm phiền, cháu rất vui lòng nếu được ở lại!”
Gương mặt Sương thị hiện lên một nụ cười hiền hòa, bà âu yếm, vén một lọn tóc mai rơi bên má nàng ra sau tai: “Tứ lang nhà họ Lý hẳn đang nóng lòng muốn cứu người. Ta sẽ bảo người đưa bản đồ Yến thành cho y ngay, tránh việc quan trọng bị trì hoãn. Từ đây ra tiền viện là một đoạn đường dài, cháu không cần ra ngoài đưa tiễn, nếu lo y không yên tâm thì cứ gửi cho y một phong thư.”
Bồ Châu gật đầu, nói được. Sương thị liền sai tỳ nữ dâng lên bút giấy. Bồ Châu viết nhanh mấy dòng ngắn gọn, báo cho hắn biết Sương thị đã hứa sẽ không tiếp sức cho Thác Càn, dặn dò hắn phải cẩn thận và đừng lo lắng cho nàng. Nàng sẽ chờ hắn xong việc rồi đến đón mình.
Sau khi viết xong thư, nàng dõi theo vị quản sự đưa thư cùng bản đồ Yến thành vội vã ra ngoài, đến đây mới thở phào một hơi.
Lý Huyền Độ bị chặn ở bên ngoài, nhìn bóng dáng nàng biến mất sau cánh cổng, rồi cánh cổng cũng đóng chặt lại.
Hắn đè nén nỗi bất an trong lòng, đi tới đi lui quanh khu vực gần cổng tòa lũy. Một lúc lâu sau vẫn không thấy động tĩnh gì, càng không thấy nàng bước ra, lòng hắn hối hận vô cùng, hối hận vì không thể khuyên nàng đừng đi vào một mình.
Hắn sốt ruột đến cực điểm, không chịu nổi nữa, vội bước về phía cổng, chỉ mấy bước đã lên đến bậc thềm, đang định giơ tay gõ cổng thì bỗng thấy cánh cổng mở ra, viên quản sự dẫn nàng vào trước đó nay đã bước ra, mặt mày tươi cười, cung kính cúi chào hắn.
Lý Huyền Độ đảo mắt nhìn ra phía sau ông ta, hỏi: “Nàng đâu rồi?”
Quản sự dâng lên một bức thư.
Lý Huyền Độ giật lấy, mở ra xem hết, ngây ngẩn.
Quản sự nói: “Chủ nhân và vương phi rất hợp nhau, khen vương phi là minh châu tiên lộ, mời vương phi ở lại làm khách vài ngày. Vương phi vui vẻ đồng ý. Trong thư hẳn đã ghi rõ.”
Lý Huyền Độ đọc kỹ lại một lượt, xác nhận quả đúng là bút tích nàng để lại, lúc này mới nhẹ nhàng thở ra, vừa tự cười bản thân quá đa nghi, vừa thầm cảm khái vì nàng đã giúp hắn một việc quá lớn.
Hắn lật mở bản đồ, nghĩ ngợi một lúc nhưng vẫn quyết định sẽ làm theo ý nàng, để nàng tạm ở lại đây, làm bạn với Sương thị, chờ hắn giải quyết xong chuyện gấp trước mắt rồi sẽ quay lại đón nàng sau.
Hắn lại đưa mắt nhìn cánh cổng kia thêm một lần nữa, cất thư và bản đồ, gật đầu với quản sự, xoay người, gọi Trương Thạch Sơn cùng những người còn lại gấp rút lên đường.
Truyện Hoàng Dung, truyện dịch, truyện chữ... nơi bạn đọc những truyện chất lượng nhất. Đọc truyện là thỏa sức đam mê.

Đăng nhập để bình luận